Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo
*
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
–
PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ
TELEVISION ADVERTISING
IN MARKET ECONOMY.
–
ANALYSIS AND EVALUATION
*
Nhà Xuất Bản Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
MỤC LỤC
- Mục Lục
- Lời giới thiệu ( KS Đinh Văn Phước )
- Lời tựa ( GS Lê Thành Nghiệp )
- Một chút riêng tư
- Phàm lệ
- )Vai trò của quảng cáo trong kinh tế thị trường: Vị trí của quảng cáo trong kinh doanh và tiếp thị hiện đại. Lịch sử ngành quảng cáo. Đầu tư vào quảng cáo trên thế giới
- ) Quảng cáo truyền hình, đặc tính và mục đích: Mô hình truyền thông quảng cáo. So sánh hiệu năng của truyền hình với các hình thức truyền thông khác. Thái độ của quần chúng đối với quảng cáo truyền hình. Các đích nhắm của quảng cáo truyền hình
- ) Người cậy quảng cáo: Hình thức kinh doanh. Thương phẩm. Thị trường. Cạnh tranh. Ngân khoản dự chi cho quảng cáo. Đánh giá môi thể. Chủ quảng cáo và chi phí quảng cáo
IV ) Hãng quảng cáo: Lịch sử. Cơ cấu. Chức năng
- ) Đài truyền hình: Đài phát sóng, mạng dây cáp và đài vệ tinh. Khung giá thời gian quảng cáo
VI ) Khán thính giả, ngườ i tiêu thụ :Thành phần quần chúng: tập quán tiếp xúc v ới truyền hình. Xã hội tiêu thụ. YÙ nghĩa của truyền hình với cuộc sống hằng ngày
VII ) Điề u tra thị trường ti ền quảng cáo : Điều tra định tính và định lượng. Đánh giá thị trường. Qui tắc tối thiểu lúc điều tra
VIII ) Các hình thức quả ng cáo: Quảng cáo tên tuổi hãng hay quảng cáo mặt hàng. Phim quảng cáo độc lập hay quảng cáo dựa vào chương trình, tiết mục truyền hình
IX ) Phân phối nhân sự trong việc thực hiện phim truyền hình: Phân công giữa chủ nhân quảng cáo, hãng quảng cáo, hãng chế tác phim quảng cáo và đài truyền hình
- ) Quá trình và kỹ thuật trong giai đoạn chuẩn bị: Quá trình thảo án và minh họa băng truyện.Hai hình thức cơ sở để thực hiện phim quảng cáo. Quá trình chuẩn bị chế tác phim
XI) Quá trình và kỹ thuật trong giai đoạn thực hiện: Thu hình phim trường và ngoại cảnh. Biên tập. Điều tra tiền phóng ảnh. Xửlý nguyên bản
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 2/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
XII) Sử dụng, khai thác phim qu ảng cáo truyền hình : Những hình thức và khâu giờ phóng ảnh. Phân loại tiết mục phim trợ lực quảng cáo. Quảng cáo cho quảng cáo
XIII) Điều tra hiệ u quả hậu quảng cáo : Điều tra định tính và định lượng về độ đạo đạt, độ chú ý, độ tiêu khiển và hiệu quả thương mại của thương điệp
XIV) So sánh thương điệp truyề n hình với các loại thương điệp khác : Khả năng quảng cáo hiệp đồng. Quảng cáo xuyên-văn-hóa
XV) Nội dung ngoại kiến và nội dung tiềm ẩn : Vai trò của tu từ học, mô thức văn hóa, các tác động tâm lý, thiên kiến, các yếu tố định hình
XVI) Tác động ngắn hạn và dài hạn đối với xã hộ i và văn hóa : Hiệ u quả xã hội. Hiệu quả văn hóa. Trình bày những kết quả dựa trên quan sát thực tiễn
XVII) Qui chế pháp lý và đạo đức : Hệ th ống pháp lý : Qui chế pháp luật, qui chế hành chánh. Nguyên tắc tự quản tự chế của đoàn thể ngành nghề. Phạm trù luân lý, đạo đức
XVIII) Bối cảnh quốc tế của ngành qu ảng cáo truyền hình : Khuynh hướng hợp nhất trong kinh doanh. Thông tin cá biệt đến thông tin toàn cầu
XIX) Những biến động mới ảnh hưởng đến quảng cáo truyền hình : Những tiến bộ kỹ thuật. Những biến chuyển xã hội sâu sắc
- Tương lai của quảng cáo truyền hình: Quảng cáo truyền hình sẽ mai một đi chăng? Quảng cáo truyền hình áp dụng vào hoàn cảnh kinh tế thị trường theo đường lối xã hội chủ nghĩa
. Bảng phụ lục
. Thư mục tư liệu tham khảo
. Bảng thuật ngữ và các từ giản ước
. Giới thiệu sơ lược về tác giả
. Bìa sau
LỜI GIỚI THIỆU
Chính sách Đổi Mớ i từ những năm sau 1986 đã đư a Việt Nam hội nh ập với cộng đồng thế giới. Một thành quả mang tính cách chiến lược của nó là Việt Nam được tổ chức ASEAN chấp nhận như một thành viên. Từ một nền kinh tế chỉ huy, bao cấp, chỉ chú trọ ng đến việc bảo đả m quyền “được mua”, Việt Nam đã chuyển hướng thực hành chính sách kinh tế thị trường, chú trọ ng cả đến việc bảo đảm quyền tư h ữu củ a người dân và quyề n tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của người s ản xuất. Tích cực động viên những nguồn vốn đầ u t ư và kỹ thuật chế tạo của các công ty ngoại quốc, chính phủ đã châm ngòi để sự phát
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 3/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
triển kinh tế bùng nổ , và quan trọng hơn nữa, đánh thức được tiềm năng của người Việt trên bình diện cả nước.
Ngày nay, thị trường không còn đóng kín trong một địa phương nhưng lan rộng
ra toàn quốc hay toàn cầu. Thị trường là thị trường không có biên giới, cạnh
tranh là cạnh tranh quốc tế. Các tiến bộ cực kỳ nhanh chóng của khoa học kỹ
thuật, các sáng kiến tạo ra mô hình kinh doanh mới và sự thay đổi thị hiếu của
người tiêu thụ là những yếu tố chính tạo ra sự biến động của thị trường, khó
lường trước được. Người kinh doanh khi quyết định và hành động, nếu chỉ dựa
vào kinh nghiệm hạn hẹp của bản thân mình, sẽ khó tìm ra cách đối ứng hữu
hiệu. Không có gì bảo đảm những cách làm ăn thành công cho đến năm nay, sẽ
tiếp tục thành công trong những năm tới. Người kinh doanh trong nước ngày
nay chắc chắn cần đến những kiến thức, những khái niệm mới nhất của thời
đại, mới có thể duy trì được lâu dài sự phát triển của xí nghiệp ở mức độ cao.
Trong bối cảnh ấy, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quí độc giả quyển sách Quảng Cáo Truyền Hình Trong Kinh Tế Thị Trường của Giáo Sư Đào Hữu Dũng. Có th ể xem đây là một cẩm nang cho các nhà kinh doanh lẫn các nhà chuyên môn làm quảng cáo. Bởi vì nó chứa đựng những khái niệm, kiến thức cơ bản, vừa lý thuyết vừa cụ thể th ực dụng. Trong quyển sách này, tác gi ả đã chứng minh cho ta thấy quảng cáo là phương tiện h ữu hiệu nhất giúp tạo ra danh tiếng cho sản phẩm hay dịch vụ, nhanh chóng đưa tên tuổi của công ty đến đại chúng, trong và ngoài nước. Có thể khẳng định rằng chưa quảng cáo được trên Ti-Vi thì không thể đạt được thành công đồ sộ trong kinh doanh.
Giáo Sư Đào Hữ u Dũng trong tập sách này đã động viên các ngành khoa học nhân văn liên hệ như lịch sử, tâm lý học, xã hội học, ngay cả văn học và mỹ thuật để làm sáng tỏ tận cội rễ những khái niệm mới của thời đại mà xã hội chúng ta chưa quen hay khó chấp nhận.
Quyển sách giáo khoa này, có thể xem là duy nhất hiện nay ở Việt Nam, còn
mang một ưu điểm nổi bật là tác giả đã trình bày những vấn đề chuyên môn,
tương đối mới đối với Việt Nam với một giọng văn hoàn toàn Việt Nam, rất hài
hòa và trong sáng. Ở đây chúng ta còn chứng kiến sự phong phú của tiếng Việt
qua những nỗ lực linh động của Giáo Sư Đào Hữu Dũng trong việc đề nghị
những thuật ngữ mới cho ngành quảng cáo.
Đinh Văn Phước
Giám Đốc Điều Hành
Công Ty Yamakyu Chain, Tokyo, Nhật Bản
LỜI TỰA
Quyển Quả ng Cáo Truyền Hình Trong Kinh Tế Thị Trường ra đời đúng vào lúc quá trình thị trường hóa củ a Vi ệt Nam bướ c vào một giai đoạn mới: hầu hết sản phẩm và dịch vụ được trao đổi trên thị trường tự do trong đó phản
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 4/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ứng của người tiêu thụ là yếu tố chính quyết định sự thành bại của xí nghiệp.
Giáo Sư Tiến Sĩ Đào Hữu Dũng trình bày một cách chính xác các lý luận căn
bản và giải thích rất tỉ mỉ về lịch sử, chức năng và nội dung của các hoạt động
quảng cáo, nhất là quảng cáo qua môi thể truyền hình. Từ lập trường của một
người quan tâm đến các vấn đề kinh tế phát triển, tôi xin nhấn mạnh hai điểm
sau đây về ý nghĩa của ngành quảng cáo trên mặt kinh tế vĩ mô của một quốc
gia đang phát triển như Việt Nam. Điểm thứ nhứt: cũng như các bộ môn kinh
tế khác, ngành quảng cáo là một thành phần cấu tạo GDP ( tổng sản lượng
trong nước), và từ đó sự phát triển của ngành quảng cáo đem đến gia tăng trong
các chỉ phiêu kinh tế vĩ mô (macro indicators) như GDP, tổng lượng nhu cầu
lao động vv…Điểm thứ hai: tỉ lệ ngành quảng cáo chiếm trong GDP gia tăng
theo mức thu nhập. Khi mức thu nhập lên cao, hình thức tiêu thụ đại chúng
biến chuyển từ nhu cầu ăn no mặc ấm qua ăn ngon mặc sang, và so với nhu cầu
no ấm, các thương phẩm cần để đáp ứng nhu cầu ngon sang này đòi hỏi rất
nhiều dịch vụ của ngành quảng cáo.
Khi lật l ại các trang báo những năm 1950, 1960, chúng ta có thể tìm ra những câu như “Thúy Kiều mắc bệ nh đau lưng… “, trong đó danh giá của văn nhân như Nguy ễn Du được dùng để quảng cáo thuốc phong thấp. Như vậy, chúng ta biết được rằng sản phẩm của ngành quảng cáo phản ánh một cách sâu đậm màu sắc xã hộ i và văn hóa của thời đại và dân tộc. Chính vì vậy tôi có tự tin giới thiệu với độc giả quyển sách này, với nội dung dồ i dào viết b ởi một học giả chuyên ngành kinh doanh nhưng có kiến thức sâu rộng trong lãnh vực khoa học nhân văn.
Tuy viết lời tựa này từ lập trường của mộ t người nghiên cứu gần ngành, tôi không kề m được niềm cảm động khi nhớ ra rằng tác giả của quyển sách, anh Đào Hữu Dũng, là một người t ừ tuổi đôi mươi đã ngồi chung một phi cơ trên bước đường du học, sau nhiều năm bay nhảy phương Âu, nay lại trở về Nhật cầm phấn viết bảng trong cùng một trường.
TS. Lê Thành Nghiệp
Giáo Sư Khoa Trưởng Phân Khoa Kinh Doanh Quốc Tế
Viện Đại Học Quốc Tế Josai (JIU), Tokyo, Nhật Bản
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Năm 1955, thuật giả còn nhớ, ở một làng quê thuộc cao nguyên miền Trung
Việt Nam, có gánh xiếc rong bán cao đơn hoàn tán đi qua. Gánh chỉ trang bị
vỏn vẹn vài chiếc ghế đẩu, bộ trống kèn, phèng la, chập choã, với chú khỉ trong
bộ quần áo sặc sỡ và cái giáo cùn. Một người trung niên khá lực lưỡng, tóc húi
cao, cất giọng khàn khàn rao các thứ thuốc bổ thận, trừ lao, khu phong, ích
khí…. Trong đám đông vây quanh anh ta, một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, trố
mắt thán phục và chỉ ước mơ có ngày được đi theo đoàn xiếc để đánh trống
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 5/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thổi kèn.
Đứa trẻ ấy không ai khác hơn là kẻ viết quyển sách này, và người trung niên hiện ra từ ký ức c ủa thuật giả, thời ấy tự xưng là …” lực sĩ ” Hồ Hoàn Kiếm. Anh ta chính là ” nhà quả ng cáo ” thuật giả gặp l ần đầu tiên trong đời. Vậy lời cảm ơn đầu tiên khi hoàn thành quyển sách này, xin gửi đến anh. Thuậ t giả thấy anh Kiếm lần cuố i nă m 1957 ở sân Vận Độ ng Thành Phố Đà Lạt, bên cạnh hồ Xuân Hươ ng, lúc anh xoay trần đùa vớ i quả bóng giữa cái lạnh cao nguyên nhưng câu rao dầu cù-là của anh đã ghi vào bộ óc non nớt, đến nay vẫn còn vang vọng trong đầu:
Bà nào chồng bỏ đi Tây
Xức vô một cái chồng quay trở về
Bà nào chồng bỏ chồng chê
Xức vô một cái chồng mê tới già
Quảng cáo ngày đó ch ỉ là trò phỉnh phờ l ừa lọc vài kẻ ngây thơ, nay thì có thể ngồi tù, nhưng đối với thuậ t giả lúc đó là cả một cõi trờ i mơ mộng. Bao nhiêu năm qua, ngành quảng cáo đã thay hình đổi dạng, ngày nay người ta còn gán cho quảng cáo những sứ mệnh cao quí nữa là.
Viết quy ển sách về Quảng Cáo Truyền Hình, ngoài việc tự th ỏa mãn một cách gián tiếp giấc mơ đi theo đoàn xiếc của buổi thiếu thời, thuật giả còn hy vọ ng gửi một chút kiến thức lý luận và thực hành về ngành quảng cáo, một môn khoa học kinh doanh, đến lớp người trẻ hôm nay. Xin hãy coi đây như món quà nhỏ gửi v ề những công dân thế hệ mới, đầy nhiệt tình, của đất nước Việt Nam thời kinh tế thị trường.
Tuy mang tham vọng vận dụng đồng loạt kiến thức đa khoa (pluridisciplinary) nh ư khoa họ c tiếp thị, khoa học thông tin, kí hi ệu học, mỹ thuật, tâm lý học và xã hội học… để mổ xẻ đề tài quảng cáo thương nghiệ p, thuật giả chỉ đóng khung bài viết của mình trong bối cảnh ba nước Mỹ, Pháp, Nhật. Dù muố n dù không, Mỹ vẫn đi tiên phong trong ngành truyền thông và quảng cáo, còn Pháp và Nhật là nơi thuật giả đã và đang sinh sống; ngành quảng cáo ở hai nước này cũng phát triển hàng đầu thế giới
Đặt bút viết về chủ đề quảng cáo không những khó khăn mà còn tế nh ị. Khó khăn cả về thuật ngữ lẫn ngôn ngữ thông thườ ng. Thuật giả đã sống ở nước ngoài gần 40 năm, hương âm dĩ c ải. Tế nhị vì ý kiế n, chủ trương của mình là những gì nhìn từ vị trí bên ngoài. Dầ u biết họ c vấn hãy còn nhiều chổ chưa thấu đ áo những chỉ sợ nỗi đường xa, trời tối. Mong các bậc cao minh vui lòng nêu ra những chổ khiếm khuyết, sai lầm, thuật giả rất hân hạnh.
Quyển sách này trích một phân đoạn và khai triển thêm ở vài khía cạnh đề tài nghiên cứu gần đ ây củ a thuật giả dưới s ự chỉ đạo của Giáo s ư Francis Balle, nguyên Phó Liên Viện Trưởng Đạ i Học Paris, nguyên thành viên Hội Đồng Tối Cao Thính Th ị (Conseil supérieur de l?audiovisuel) nhà nước Pháp. Xin nghiêng mình cảm tạ ng ười thầy uyên bác và nhân h ậu, bạn đường chung thủy của bao thế hệ sinh viên đến từ các quốc gia trên thế giới, tụ họp dưới mái
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 6/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
trường cũ thân yêu của thuật giả , Học Viện Pháp Quốc Báo Chí (Institut Francais de Presse) (1974-76) ở Paris..
Thuật gi ả không quên lòng tốt của Đại Học Quố c Tế Josai (Tokyo) , nơ i thuật giả hiện làm việc, đã dành cho phương tiện sinh sống và nghiên cứu tối ưu từ trên bảy năm nay.
Thuật giả thành thực cảm ơn các đàn anh và trang lứa nh ư Kỹ Sư Đinh Văn Phước (Giám Đốc Đi ều Hành Công Ty Yamakyu Chain, Tokyo), Ti ến Sĩ Lê Thành Nghiệp ( Giáo Sư Khoa Trưởng Khoa Kinh Doanh Quốc Tế, Viện Đại Học Quốc Tế Josai, Tokyo),Tiến Sĩ Vũ Ngọc Thinh (Nghiên Cứu Sư Công Ty Fujitsu và Trung Tâm Khai Phát Vũ Trụ Nhật Bản) đã chịu khó duyệt hộ bản thảo, góp nhiều ý kiến thẳng thắn hoặc cho lời giới thiệu.
Quyển sách này không thể ra đời nếu thiếu sự chi viện tinh thần của công ty Dentsu, hãng quả ng cáo lớn nhất thế giới, nơi thuật giả thường xuyên đến tham khảo văn kiện và phim ảnh từ mấy năm qua.
Thuậ t giả không dám quên sự giúp đỡ tư liệu và những lời khuyến khích của Tiến Sĩ Quản Phúc Cảnh (Nghiên Cứu Sư Trung Tâm Khoa Học Quốc Gia Pháp, Giáo Sư Y Khoa Bi ệt Thỉnh Đại Học Hiroshima), Tiến Sĩ Ngô Diệu Kế (Tổng Giám Đốc Công ty Vitech, Tokyo-TP Hồ Chí Minh) và Tiến Sĩ Roddey Reid (Giáo Sư Phụ Tá Đại Học California, phân hiệu San Diego). Những khi gặp khó khăn và lúc thố i chí ngã lòng, sự ân cần của quý vị đã nâng đỡ thuật giả rất nhiều. Xin quí vị và quí bạn, những người thuật giả được quen biế t từ nhiều thập niên và đã có những cống hiến nhất định cho xã hội, nhận nơi đây tất cả lòng tri ân.
Thuật gi ả biết ơn các tiền bối trong họ c giới đ ã cho phép sử dụng sách vở của mình để minh ch ứng lập luận. Đối với nh ững ai đ ã không có phép, xin quí vị hiểu cho việc ấy nằm ngoài ý muốn, nhất là thuật giả không hề nhắm mục đích thương mại khi viết sách.
Thu ật gi ả đa tạ bà Hoàng Th ị Tâm, Chủ Nhi ệm Ban Bảo Trợ Sinh Viên trường Đại Học Hùng Vương, đã vì tình bạn mà đở đầu phần ấn loát. Thuật giả cũ ng thành thực cảm ơn phu quân chị Tâm, Kỹ Sư Nguyễn Đình Long, Nguyên Giám Đố c Kỹ Thuật Công Ty Dệt Thắ ng Lợi, người đàn anh từ những ngày thuật giả lưu h ọc Tokyo (1965-70), đã ảnh hưởng đến việc “chọn nghiệp” của thuật giả. Anh Long đã có lần viết một bài thơ với cái ý “phải nhón chân lên khỏi thân phận một thước sáu mươi để nhìn thấy tương lai”. Lờ i nói của anh khiến thuật giả liên tưởng tới câu chuyện những em bé tiểu học vì đọc sách nói đến cu ộc đời của nhà côn trùng học Fabre hay nhà cổ v ăn tự Champollion mà sau đã nghiên cứu về sinh vật hay những nền văn minh đã mấ t. Mong sao sẽ có những nhà quảng cáo hay kinh doanh tương lai của Việt Nam có lần lướt qua vài trang sách này.
Mấy giòng cuối trong l ời cảm tạ của quy ển sách đầ u tay này dành cho song thân thuật gi ả, nay đều khu ất núi, những con người Việt Nam hi ền hòa, bình dị mà cuộc đời chẳng có mấy ngày vui. Xin gửi theo đây chút tình trìu mến đến
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 7/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
tiện nội Bạch Tuyết và hai con Linh Lan, Quang Trân ở Paris, nguồn cổ vũ tinh thần lớn lao của thuật giả trong những ngày sống xa nhà, đơn độc mò mẫm đọc sách và gõ máy.
Gác trọ nhìn ra vịnh Tokyo, mùa nắng 2003
Đào Hữu Dũng
PHÀM LỆ
- Vì tính tương đối của những thuật ngữ tiếng Việt đề nghị trong tập sách này, tác giả mạn phép chua thêm từ ngữ Anh, Pháp hoặc Nhật lấy trực tiếp từ tài liệu tham khảo. Những từ tiếng Pháp sẽ chua chử (P) và Nhật chua chử (N), còn từ Anh không chua gì cả. Một số từ ngữ quá chuyên môn sẽ được nhắc lại và giải thích thêm trong bảng các thuật ngữ và các giản ước đặt ở cuối sách.
- Thuật ngữ Nhật Bản được La-Mã hóa theo phương pháp Hepburn thông
dụng với vài sửa đổi cho tiện l ợi. Những dau oo (o dài) , uu (u dài), aa (a dài) hay ii ( i dài) trong tiếng Nh ật được giản lược thành o, a, i thông thường. Âm “sh” đọc như s, âm “ch” xin đọc như ch trong tiếng Việt.
C) (sđd) có nghĩa là “sách đã dẫn”
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 8/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
CHƯƠNG MỘT
VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ngày nay, mỗi khi có dịp ghé ngang những thành phố xưa kia phong kín và nghiêm khắc như Thượng Hải, Phnom Penh hoặc Warsaw, ta th ấy hình ảnh quảng cáo đầy khắp đường phố, trên bảng hiệ u, trên tường, trên xe điện, trên bìa tạ p chí, bằ ng tranh vẽ, bằng đèn màu. Tất cả như thể những tín hiệu tượng trưng cho đổi mới, cho phát triển kinh tế.
Thật vậy, trong những thập niên g ần đây, quảng cáo không nh ững đã triển khai theo chiều rộng mà cả chiều sâu. Nói đế n chiều rộng của nó, ta thấy quảng cáo có mặt khắp chốn, từ những quốc gia có truyề n thố ng tư bản đến những nền kinh tế theo khuynh h ướng xã hội một khi đã chọn sự cạnh tranh thương nghiệp làm độ ng lực kích thích kinh tế. Về bề sâu, quảng cáo không những đã làm biến dạng những mô thức sinh hoạt của người tiêu thụ mà còn thay đổi tư duy, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của mọi lớp người trong xã hội.
Nếu muốn thêm vào một chiều thứ ba nữa, chiều phát triển kỹ thuật, thì quảng
cáo từ những phương tiện thô sơ như lời đồn đại, tin tức truyền miệng giữa bạn
bè, lời dẫn giải của người bán hàng đến các hình thức khác như tặng quà, phát
giải, xổ số, yết thị, bích chương… đã tận dụng sức mạnh của năm môi thể
truyền thông đại chúng ( nhật báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh)
trước khi tiến về phía những phương tiện truyền thông tối tân đa môi thể (Multi
Media), truyền thông vệ tinh (Broadcasting Satellite) và thông tin trên mạng
(Net). Như thế, truyền thông tiếp thị bao gồm ba hình thức thông tin chủ yếu:
- truyền thông cá nhân (individual communication)
- truyền thông giữa cá nhân (interpersonal communication)
- truyền thông đại chúng (mass communication)
Đọc một trang báo hay xem một tiết mục truyền hình ta có thông tin cá nhân. Những thông tin này không những đượ c cảm nhận qua thị giác (perceptual screening) mà phả i đượ c thông hiểu và ghi nhớ nhờ có sự lập đi lập lại (repetition) và sức khơi gợi (appeal) sự chú ý của ta. Loạ i thông tin giữa cá nhân là mách nước (word to mouth) giữa bạn bè, lời đồn đại hay thuy ết minh của người chào hàng.Thông tin đại chúng có phạ m vi hoạt động rộng lớn hơn nhờ kỹ thuật quảng bá của những môi thể truyền thông đại chúng (mass media).
Khoa học tiếp thị (Marketing) mới ra đời cách đây vừa đúng 100 năm (1900)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 9/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
trong điều kiện đặc biệt của nước Mỹ mà quảng cáo là một vũ khí không thể
thiếu được của người làm tiếp thị miền Đông Hoa Kỳ khi muốn tiếp cận khách
hàng Viễn Tây. Vũ khí ấy thật ra đã có mặt trên trái đất từ nhiều năm trước khi
những môn khoa học gọi là tiếp thị (Marketing) và truyền thông tiếp thị
(Marketing Communication) thành hình. Quảng cáo còn tăng hiệu lực gấp bội
khi được sử dụng hiệp đồng đúng liều lượng cùng với những yếu tố khác như
khả năng phân tích và đánh giá thị trường, khả năng quản lý và phân phối
thương phẩm trong một chiến lược gọi là “tiếp thị hỗn hợp” (Marketing Mix),
thuật ngữ được nhà kinh tế học Mỹ Neil H. Borden, dùng lần đầu tiên.
Quảng cáo hiện đạ i chỉ phát triển mạ nh trong những qu ốc gia tiên tiến từ đầu thế kỷ trong đó có Nhật Bản và theo K.Hattori (1996) , ta có th ể phân chia l ịch sử củ a tiế p thị cũ ng như quảng cáo thương mại qua ví dụ Nhật Bản. Ở Nh ật trong thế kỷ 20 , có 4 thời kỳ tiếp thị qua bốn cao điểm (trong ngoặc) như sau:
- Thời kỳ có người mua mà thiếu hàng (1910-1945)
- Thời kỳ bán cho bằng được hàng mình chế tạo (1945-1970)
- Thời kỳ chế tạo theo sở thích khách hàng (1970-1990)
- Thời kỳ cùng nhau đi tìm những giá trị mới (từ 1990)
Tiếp thị cũng như quảng cáo, vũ khí của nó, không đóng vai trò đáng kể trong một n ền kinh tế chỉ huy hay trong tình trạng hàng hóa thiếu thốn. Bởi vì bao nhiêu hàng vừ a làm ra đã có người mua ngay nên người ta không ph ải rao hàng. Kị p đến khi hàng hóa được sản xuất hàng loạt, người sản xuất thúc bách thiên hạ mua mặt hàng mình chế tạ o (sales push). Lúc nhu cầu tiêu thụ đ ã tới mứ c bão hòa, người ta mới bắt đầu đi tìm hiểu nh ững món hàng nào cần thiết đối v ới người mua để mà sản xuất cho xứng ý họ (marketing pull) và hoạch định chiến lược để vượt qua những khó khăn của một thời đại người khôn, củ a khó. Cuối cùng, người chế tạo cũng như nhà quảng cáo phải đi tìm những giá trị mới trong một thời đạ i mà thị tr ường không những chia thành từng mảnh (segments) mà còn phân tán mỏng đến mức độ cá nhân.
I. QUẢNG CÁO LÀ GÌ ?
Chúng ta biết rằng trong thời đại toàn c ầu hóa nh ư ngày nay, thị trường vừa đi về tiêu chuẩn hóa (standardization), lại vừa đ i đa d ạng hóa (diversification). Cạnh tranh càng ngày càng gay cấn và người cạnh tranh có khi vô hình vô ảnh như trong điện thương (E-Commerce) nên sự cá bi ệt hóa mặt hàng (differentiation) càng ngày càng đóng vai trò quan trọng và nhiệm vụ của quảng cáo phức tạp và khó khăn ra. Nhưng trước hết, quảng cáo là gì?
Thật ra, hành động có tính qu ảng cáo đã có từ rấ t sớm trong lịch sử loài người dù nó chỉ xuất hiện dưới những dạng thô sơ và ở kh ắp hình thái xã hội đến nỗi tính phổ quát của nó đã được nhà qu ảng cáo Pháp Robert Guérin thậm xưng: “Khí trờ i gồm có dưỡng khí, khí ni-tơ và…quảng cáo”. Guérin hẳn muốn nói về ” quảng cáo thương mại ” (CM = Commercial Message) vì hãy còn nhiều loại quảng cáo khác không thuộc vào chủ đề của quyển sách này (thuật
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 10/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
giả muốn nói đến quảng cáo công ích (PSA = Public Service Advertising), quảng báo hay giao tế giữa xí nghi ệp v ới bên ngoài (PRA=Public Relations Advertising) chẳng hạn). Ngườ i ta còn ví qu ảng cáo như luồ ng gió th ổi cho máy xay gió kinh tế chạy được hoặc, văn vẻ hơn, là đóa hoa của thời đại vv…nữa.
Định nghĩ a ngắn gọn và th ực tế nhất có thể là “tấ t cả những phương tiện thông tin và thuyết phục quần chúng mua một món hàng hay một dịch vụ” (Robert Leduc) cho dù Leduc đã bỏ qua hay để hiểu ngầm về những cơ năng tăng cường của quảng cáo như sáng tạo (création), duy trì (retention) và biến đổi (conversion) (P) hoàn cảnh kinh doanh, trong đó ngoài đối tượng khách hàng và mục đích bán hàng, hay còn nhiều đối tượng và mục đích khác.
Ta có thể mượn lời của Hiệp Hội Tiếp Thị Hoa Kỳ AMA (American
Marketing Association) để định nghĩa quảng cáo như sau:
- Quảng cáo là một hoạt động tốn tiền (paid form)
- Dựa vào môi thể, không dựa vào con người (non personal)
- Để loan báo, chào mời về một ý kiến, sản phẩm hay dịch vụ (goods / servives).
- Do một người cậy quảng cáo có danh tánh rõ ràng (identified sponsor).
Với thời gian, ta thấy đị nh nghĩa của AMA hãy có những chỗ cần bổ sung. Nội dung quảng cáo thương mại ngày nay đề cập tớ i nh ững chủ đề có tính công ích, người làm quảng cáo nhiều khi làm việc không lấy tiền công cho những loại qu ảng cáo cho lợi ích tập thể. Và các lo ại quảng cáo của xí nghiệp không chỉ lo ca ngợi thương phẩm củ a mình mà còn đư a ra chủ trương triết lý của hãng, quảng cáo cho hình ảnh xí nghiệp (CI hay Corporate Identity). Không chỉ giới thiệu món hàng để mời mọc (buy me) mà còn giới thiệu lập trường của mình để được mọi người yêu nể (love me) nữa.
Vềđặc tính của quảng cáo, R. Leduc xem nó trước hết là một yếu tố của
truyền thông, có mặt khắp nơi, được sử dụng lập đi lập lại, phục vụ một mục
đích rõ ràng, không bắt người xem phải trả tiền. Nó còn là một thứ thông tin
thiên vị và cục bộ vì để bán được hàng, nó (hầu như ) chỉ trưng những gì hay
đẹp của món hàng mà thôi. Quảng cáo tuy được nhiều hình thức truyền thông
khác (qua truyền miệng và ý kiến của người hướng dẫn dư luận) hỗ trợ và nối
dài nhưng lại bị giới hạn trongkhông gian và thời gian vì khả năng của
những đường giây nó sử dụng (giờ phát sóng, tiền chi phí) cũng như sự quên
lãng của độc giả hay khán thính giả, đối tượng của quảng cáo.
Vào năm 1961, nhà tư vấn kinh doanh Mỹ Russell H. Colley đã đưa ra lý luận DAGMAR ( Defined Advertising Goals for Measured Advertising Results = Thiết định mục tiêu qu ảng cáo để đo lường hiệu quả của quảng cáo) mà ta có trình bày quá trình đạt đến mục tiêu của nó như sau:
– Biết đến (Awareness)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 11/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Hiểu rõ (Comprehension)
- Tin chắc (Conviction)
- Hành động (Action)
Theo đ ó, người ta sẽ tính độ nhận thức (ví dụ 30%), độ thông hiểu (ví dụ 15%), độ xác tín (ví dụ 8%) và độ hành động (ví dụ 3%), những số liệu c ơ bản để tính điểm (benchmark) quảng cáo. Ở Mỹ còn có mô hình truyền thông gọ i là AIDA (Attention- Interest- Desire-Action, có nghĩa là Chú YÙ – Quan Tâm – Ham Muốn – Hành Động). Những loại hình này đặt trọng tâm vào tính hợ p lý của quá trình dẫn đến hành động mua. Tuy nhiên, ta cũng thấy có những ngoại lệ như kiểu mua vì bốc đồng (impulse purchase), nặng về tình cảm hơn, nôm na gọi là “thích thì mua”.
II. VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO TRONG THÔNG TIN TIẾP THỊ
Quảng cáo là một phần của chiến thuậ t phối hợp 4Ptrong tiếp thị (Product, Price, Place (Distribution), Promotion) nghĩa là “bộ tứ” thương phẩm, giá cả, phân phối, khuy ến mãi. Khuyến mãi (Promotion) ở đây hiểu theo nghĩa rộng, tập hợp của bốn hoạt động ( bao gồm Advertising hay quảng cáo , Sales Promotion hay khuyến mãi theo nghĩ a hẹp, Public Relations hay ngoại giao xí nghiệp , Salesmanship tức chào hàng ) mà ta sẽ phân tích k ỹ ở phần sau. Qu ảng cáo trong thời đại cạnh tranh chỉ có hiệu lự c khi người làm tiếp thị đ ã thành công trong chiến lược 4P của họ (Probing, Partitioning, Prioritying, Positioning) nghĩa là các ho ạt động b ắt đầu từ việc điều tra tường tận thị trườ ng (Probing), chia cắt nó thành phân ti ết (Partitioning, còn gọi là Segmentation) để có thể tập hợp lực lượng ti ến công, chọn mả ng thị trường ưu tiên (Prioritying, còn gọi là Targeting) theo chỉ tiêu của hãng và khi điều kiện khách quan cho phép, để cuối cùng định vị trí và đ iều chỉnh vị trí (Positioning cũ ng nh ư Repositioning nếu cần thiết) dành được ưu thế của mặt hàng củ a mình đối với các mặt hàng khác và những đối thủ cạnh tranh trong điều kiện của thị trường đó .
Đồ biểu 1.1 : Vị trí của quảng cáo trong quá trình tiếp thị hiện đại
Giai | 1) Sứ | 2) Mục | 3) | 4) Chiến | 5) | 6) | ||||||||
Đoạn | Mệnh | Đích | Chiến | Thuật | Thực | Kiểm | ||||||||
Lược | Hiện | Soát | ||||||||||||
Nội | Xác | Định | a) Điều | a) | Chấp | Kiểm | ||||||||
Dung | định | mục | Tra | Thương | Hành | tra và | ||||||||
văn | đích là | b) Tế | Phẩm | sửa | ||||||||||
hóa xí | thu lợi | Phân | b) Giá Cả | chữa | ||||||||||
nghiệp, | nhuận | Thị | c)Phân | nếu | ||||||||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 12/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
lý | hay | Trường | Phối | cần | ||||||||||
tưởng | chiếm | c) | d)Quảng | thiết | ||||||||||
của xí | thị | Chọn | Cáo (kể | |||||||||||
nghiệp | phần | Đích | cả | |||||||||||
Ngắm | truyền | |||||||||||||
d) Định | hình) | |||||||||||||
Vị Trí | ||||||||||||||
Xuất xứ: Theo Hattori Kiyoshi (trong Kokoku Zuno, 1996)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 13/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quảng cáo được bàn đến trong tập sách nhỏ này, như định nghĩa kể trên, chỉ là quảng cáo
thương mại trước khi đóng khung trong quảng cáo thương mại truyền hình. Để vấn đề được triển khai rõ hơn, chúng ta hãy thử so sánh đặc đi ểm của quảng cáo nói chung và quảng cáo thương mại nói riêng qua hai đồ biểu sau đây của K. Kajiyama.(sdd)
Đồ biểu 1.3: Đặc trưng của khái niệm quảng cáo
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 14/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quảng Cáo (Advertising)
Nguồn thông tin
Đích xác
Nội
dung
Vật
dụng,
Dịch vụ,
Khái
niệm
Đối
tượng
Khu vực rộng lớn
Mục đích
Thương nghiệp và Xã hội
Chi phí
Có chi
phí
Phương
tiện đề
xuất
Môi th ể truyền thông
Giao Tế Xí Nghiệp (Public Relations)
Tuyên Truyền (Propaganda)
Đích xác
lẫn
không
đích xác
Đích xác
lẫn
không
đích xác
Vật
dụng,
Dịch vụ,
Khái
niệm
Khái
niệm
Khu vực
rộng lớn
hoặc
giới hạn
Khu vực
rộng lớn
hoặc
giới hạn
Xã hội và Thương nghiệp
Chính trị và Xã hội
Có và
không
có chi
phí
Có và
không
có chi
phí
Môi thể
truyền
thông và
con
người
Môi thể
truyền
thông và
con
người
Khuyến Mãi
(theo nghĩa
hẹp)
(Promotion)
Đích xác
Vật
dụng,
dịch vụ
Khu vực giới hạn
Thương nghiệp
Có chi
phí
Môi thể
truyền
thông và
con
người
Đồ biểu 1.4: Phân loại quảng cáo theo mục đích
Quảng cáo thương nghiệp
(Commercial Advertising)
Trọng tâm là khách hàng
(Consumer Advertising):
-Mạng toàn quốc
(National Advertising)
-Mạng địa phương (Local
Quảng cáo phi doanh lợi (Non profit Adverising)
Quảng cáo lợi ích công cộng (Public Service Advertising)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 15/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Advertising)
-Quảng cáo nhu yếu phẩm
(Primary Demand
Advertising)
-Quảng cáo mặt hàng có
tiếng (Selective Demand
Advertising)
Trọng tâm là đồng nghiệp
(Business-to -business
advertising) :
-Quảng cáo kỹ nghệ
(Industrial Advertising)
-Quảng cáo hình ảnh xí
nghiệp (Corporate Identity
Advertising)
-Quảng cáo hệ thống phân
phối (Trade Advertising)
-Quảng cáo chuyên môn
(Professional Advertising)
-Linh tinh (ví dụ giao tế
bán hàng Public Relations
Advertising)
-Quảng cáo chính trị (bầu cử vv…) (Political Advertising)
-Quảng cáo định chế Institutional Advertising)
Quảng cáo ý kiến hay tín điều, chủ trươ ng luận thuyết (Cause Advertising), luận chiến (Controversy Advertising), biện cải (Advocacy Advertising) hay đặt vấn đề (Issue Advertising)
Các hình thức quảng cáo khác
Theo Từ Đ iển Bách Khoa Vương Quốc Anh (Encyclopedia Britanica), 1000 năm trước Công Nguyên, ở vùng đồng bằng Mesopotamia, khu vực Lưỡ ng Hà, đã có bảng quảng cáo bằng đấ t nung đặt tiền thưởng cho ai tìm đượ c mộ t nô lệ bỏ trốn. Ở Á Châu, Trung Hoa dường như đ ã biết đến quảng cáo từ thời Tây Chu ( thế kỷ 11 đến 771 trước Công Nguyên) qua nh ững hội ch ợ đầu tiên (Hong Cheng, trong Jones, J.Ph, 2000). Hàn Phi Tử (280-233 trước CN) đã nói đến lá
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 16/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
tửu kỳ chiêu khách của một anh hàng rượu nước Tống đời Xuân Thu Chiến Quốc. Buồn cười là
chữ “Publicité” trong tiếng Pháp, ngày nay có nghĩa là Quảng Cáo ( khác với chữ Publicity trong
tiếng Anh có nghĩa là Quảng Báo, gần với Public Relations hơn là Advertising), vốn có nghĩa “là
một tội trạng có nhiều người chứng kiến”. Người Pháp tin rằng nhà triết học kiêm luận thuyết
gia Michel de Montaigne là cha đẻ của ngành quảng cáo ở Pháp vì ông đã đề cập đến nó trong
tập luận thuyết “Essaies” (1580) của ông. Dù sao, mãi 40 năm sau, quảng cáo mới lên khuôn trên
tờ La Gazette (1631) của nhà báo Théophraste Renaudot. Ở Anh, quảng cáo (Advertising) đã
xuất hiện lần đầu tiên ngày 26/05/1657, thông báo cho mọi người hiệu quả của cà phê mà thời ấy
người ta tin là linh dược trị bá chứng.
Quảng cáo đã trở thành mộ t ho ạt động kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Lịch sử củ a quảng cáo hiện đại Âu Mỹ dính liền vớ i những nhân tố như sự thành hình của hệ thống kinh tế tư bản, cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (1750 ở Anh), sự hưng thịnh của những phươ ng tiện truyền thông đại chúng (khở i thủy của nó là phát minh về điện tín năm 1844). Các tác giả như O?Guinn chia quảng cáo ở Mỹ ra làm nhiều thời kỳ :
–Th ời tiề n kỹ nghệ (trước 1800) quảng cáo xuất hiện trên các tập thông tin (newsbook) tiền thân của nhậ t báo. Quảng cáo thời đó mới là phương tiện rao vặt và còn chưa dính líu nhiều đến thương phẩm.
–Thời kỹ nghệ hóa (1800-1875) quảng cáo được đăng trên nh ật báo (dailies). Quảng cáo có mục đích nới rộng thị trường do hiện tượng tăng gia dân số và đô thị hóa. Hãng quảng cáo đầu tiên (Volney Palmer) ra đời ở Philadelphia.
-Thời kinh tế tiêu thụ (1875-1918) khi cơ cấu củ a ngành quảng cáo được thành lập (với các hãng quảng cáo, các nhà doanh nghiệp quảng cáo mà phần lớ n xu ất thân từ đám con cái các nhà truyền giáo, cũng như các kỹ thuật gia quảng cáo) và là thời điểm đạo luật qui định về thương phẩm lành mạnh (Pure Food and Drug Act, 1906) ra đời.
-Thời kinh tế hưởng thụ tiền khủng hoảng (1818-1929) từ khi khoa học kỹ thuật phát triển mạnh và sản phẩm đa dạng hóa. Quảng cáo nghiêng về mỹ thuật, thời trang.
-Thời khủng hoảng kinh t ế (1929-1941), quảng cáo trở thành đối tượng của mọi dè bĩu và phản ánh mối lo âu của những người sống trong một nền kinh tế đang lâm nguy.
- Thời thế chiến thứ hai và thập kỷ 50 (1941-1960) quảng cáo trước tiên phục vụ cho nền kinh tế chiến tranh, sau đó phụng sự kinh tế tiêu thụ hậu chiến. Cùng với nhạc Rock, văn hóa tuổi trẻ (Youth Culture) và sự công khai hóa thị hiếu tính dục. Vô tuyến truyền hình đã ra đời vào thời điểm này.
- Thời ý thức về hòa bình, tình yêu và sáng tạo (1960-1972) nước Mỹ náo động vì phong trào đòi quyền sống của người da đen và phong trào chống chiến tranh của Mỹ ở VN. Quảng cáo bước vào thời sáng tạo và ý thức về vai trò ” văn hóa ” của mình.
–Những năm 70 : thời của vô độ và ích kỷ. Cùng lúc, phong trào đ òi kiề m chế những quá lố của quảng cáo và bảo vệ người tiêu thụ được phát triển mạnh mẽ (v ới s ự ra đời của nhóm ATC (Tranh Đấu Cả i Thiện Truyền Hình Cho Thiếu Nhi hay Action for Children?s Television) và sự thành lập FTC (Ủy Ban Bảo Vệ Tự Do Mậu Dịch hay Free Trade Commission) và NARB (Hội Đồng Quốc Gia Kiể m Sát Quảng Cáo hay National Advertising Review Board). Những năm 70 cũng chứng kiến sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới như máy thu hình bằng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 17/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
băng từ VTR (Video Tape Recorder), CATV (Cable Television hay Truyền Hình Bằng Mạng Giây Cáp), đĩa la-de (Laser Disc…).
-Những năm đảng Cộng Hòa cầm quyền (1980-1992) thời chính trị bảo thủ, quảng cáo phản ánh
- thức hệ của chính quyền Reagan và Bush Sr. Đây là thời của Informercial (Information +Commercial, tạm gọi là thương báo) , bởi vì quảng cáo được trình bày trong giờ tin tức thời sự với chủ tâm tận dụng những khâu giờ phát sóng ít tốn tiền.
–Thời hiện tại (1993 cho đến nay): những phương tiện truyền thông mới (New Media) và các
mạng toàn cầ u (World Wide Web) với khả n ăng giao lư u hỗ tương (interactive) của nó nối được con ng ười và môi thể (medium) đã làm thay đổi bộ mặt của các cơ quan truyền thông. Đây c ũng là một thách thức của hình thức quảng cáo mới, n ăng động, tương phản với hình thức quảng cáo đơn phương (con người thụ động trước máy) của quảng cáo truyền hình.
Nhật Bản tự hào vì đã biế t đến quả ng cáo từ trước thời Nara (710-794) khi họ dùng những t ấm bảng hiệ u bằng gỗ để y ết thị ngoài chợ (764). Theo T. Yamaki, Hiraga Gennai (1728- 1779) đã viết văn quảng cáo cho quán bán thịt lươn và bột thuố c đánh răng trước cả những nhà viết quảng cáo Âu Mỹ như Honoré de Balzac (Pháp), Bret Harte (Mỹ ) hay Samuel Sheperd (Mỹ). Nhưng dù sao, vẫn theo T. Yamaki, phải đợi đến năm 1861, dưới thời Minh Trị Duy Tân, ở Nhật mới có quảng cáo trên tờ báo (tiế ng Anh) Japan Herald. Khoảng 1946-59, qu ảng cáo truyền thanh và truyề n hình nối tiếp nhau ra đời. Thế Vận H ội Tokyo (1964) đánh dấu bước tiến vọt của kinh tế Nhật và từ thời đ iểm đó, họ đã dần d ần làm quen với những phương ti ện truyền thông mới. Ngày nay, tuy Internet không phải là điểm mạnh của họ vì nhiều lý do trong đó có lý do ngôn ngữ, Nhật vẫn là một nước mà việc buôn bán trực tiếp trên mạng được phổ cập khá nhanh chóng.
Xã hội chúng ta đang sống là xã hội thông tin cao độ. Lịch sử kinh tế nhân lo ại b ắt đầu bằng thời đại nhặt nhạnh và săn bắn trước khi phát hiện ra được khả năng sinh thực của đất đai hoa màu. Sau khi kinh t ế nông nghiệp suy thoái rõ ràng t ừ khoảng năm 1900, xã hội hiện đại thông qua thờ i đại kinh tế kỹ ngh ệ (kéo đến 1960) để bướ c dần vào thời đại của thông tin (kể từ 1940) và d ịch vụ (kể từ 1965) (F. Balle trích dẫn M.Porat và A.Moles). Phải hiểu chữ ” thông tin ” ở đây với nghĩa rộng là thông tintrí tuệ (knowledge) ch ứ không phải là thông tin thờ i sự (news). Những phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông cá nhân giúp trực tiếp cho hoạt động thông tin phát triển, gián tiếp thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, giữa người và người.
Nguyên lai, nghiên cứu v ề truyền thông đại chúng nằm giữa biên giới của hai khoa tâm lý và xã hội học. Từ năm 1939 đã có Tchakhotine đặt vấn đề về tuyên truy ền chính trị , sau đó, vào nă m 1947, Shannon và Weaver đề nghị mô hình truyền thông (sẽ được kể tiếp bởi Schramm) dựa trên nghiên cứu về truyền thông qua điện thoại. Sau đó đế n nhà xã hội học Harold D. Laswell với lập luận nổi tiếng về truyền thông : ” ai nói cái gì cho ai bằng ph ương tiện nào và đạt được hiệ u quả ra sao “. Ph ần đông chúng ta chắc không xa lạ gì với mô hình truyền thông đại chúng do Wibur Schramm đề nghị trong tác phẩm nổi ti ếng ” Quá Trình và Hiệu Năng của Truyền Thông Đại Chúng “(The Process and Effects of Mass Communication), ra đời cách đ ây g ần nửa thế k ỷ (1955). Schramm đã đưa ra 3 mô hình t ừ đơn giản đến phức tạp mà ti ến trình của luồng thông tin trong quá trình phức tạp nhất của bộ ba đó có thể di ễn dịch là đã tuần tự chuyển biến qua các giai đoạn như sau trong trường hợp một thông điệp quảng cáo :
1 Nguồn tin (Source) bắt nguồn từ người muốn thông báo (Communicator)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 18/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Hệ thống thu tín hiệu (Encoder) và những đường giây (Channels) tiếp nhận : ví dụ người bán hàng nhận chỉ thị và tin tức, máy thu hình, máy ghi âm, vệ tinh nhận tín hiệu.
- Thông điệp (Message) được tín hiệu hóa (Signalized)
- Hệ thống giải tín hiệu (Decorder): Đường giây (Channels) giải mã tín hiệu: như khi người bán hàng giải thích, truyền hình phát ảnh, đài truyền thanh phát thanh, màn ảnh xi nê chiếu phim, vệ tinh phát sóng.
- Đích nhắm (Destination) là người nhận tin (Receptor) hay khán thính giả (Audience).
- Hiệu quả (Effects) của thông tin như thế nào khi nó châm ngược trở lại (Feedback) phía người thông báo: phản ứng tiêu cực hay tích cực, chấm dứt hay nối thêm quá trình.
Chúng ta nhận th ấy có sự trùng hợp gi ữa mô hình truy ền thông củ a Schramm (1955) và mô hình thông tin tiếp thị của Kotler (gồm b ốn chủ thể : Người thông báo, Thông điệ p, Môi thể chuyển vận, Ng ười nhận tin, 1988) . Trong cả hai mô hình, điều quan trọng là trong thông tin trước h ết phải có sẳn nhữ ng điểm tương đồng giữa người thông báo và ngườ i nh ận tin. Đó là sự thông hiểu (Literacy) của người nhận tin cho phép người thông báo khơi gợi được một nhu cầu hay thông báo điều mình muốn nói đến người nhận. .
Khái niệm v ề đường giây truyền tin (Channels) bao g ồm máy móc và con người. Người xem phim quảng cáo có thể truyền đạt thông tin cho bạn bè, đồng nghiệp (thông tin truyền miệ ng hay words to mouth web), nhất là khi anh ta đ óng vai người dẫn đầu dư luận (opinion leader). Đi ểm thứ hai là đường dây có thể làm méo mó, lệch lạc (distortion) khiến cho sự tiếp nhận thương điệp chỉ có tính cách phiến diện (selective perception, retention).Tin tức đến người nhận thường bị nhiễu (parasite) thành ra không còn chính xác, bị thanh lọc vì những bức chắn (screen) hay bị xáo trộn bởi những yếu tố ngoài bản ý của người đưa tin như sự lệch lạc do tin đồn (rumor), hiểu lầm (misunderstanding), hiểu sót. Đó là chư a kể những bóp méo vì điều kiện đặc biệt của môi th ể ( lối hành văn, khuôn khổ giờ phát sóng, phẩm chấ t hình ảnh, màu sắc). Đúng như Mc Luhan đã bình luận: “Môi thể là một cọ xát “( Le médium, c’est le massage).
Do đó, sự lự a ch ọn và đặt kế hoạch cho đường giây hay môi thể truyền thông (media-planning) là điều thiết yế u của người làm quảng cáo, chưa kể đến những nhân t ố có tính cách chất lượng nh ư uy tín của nguồ n tin (source credibility) hay có tính cách kinh tế như sự hợp lý hóa chi phí để đạt hiệu năng tối ưu, những điều mà ta không thể bỏ qua.
Các phương tiện truyền thông đượ c đặt trong bối cảnh kinh tế xí nghiệp cho nên nó phả i tuân theo những định luật chi phối một t ổ chức kinh tế, trong đó có nguồn tài chánh để vận hành hoạt động kinh tế. Chúng ta biết tài nguyên của báo chí dựa mộ t phần trên tiền bán báo, truyền thanh và truyền hình dự a một phần vào tiền đóng góp của khán thính gi ả cũng như sự trợ giúp của nhà nướ c nhưng tài nguyên đó không đáng kể bên cạ nh tài nguyên đến từ đầu tư quảng cáo. Gọi nó là đầu tư vì quảng cáo có tính chất gầy dựng một hình ảnh tốt đẹ p cho một thương phẩ m (Brand Equity) hay một xí nghiệp (Corporate Identity) và xí nghiệp sẽ thu lượm thành quả mà hình ảnh đó đem tới. Vì l ẽ đó, nhiều nhà lý luận không đồng ý gọi suông tiền dùng vào việ c quảng cáo là chi phí nghĩa là dùng xong mất đi. Tiền quảng cáo chi ếm một tỉ lệ lớn trong tổng sản lượng quốc gia (GNP hay Gross National Product)): trong năm 1997, nó chiếm 0,67% GNP của Pháp, 0,71% của Âu Châu và 1,12% của Mỹ.
Theo F.Balle (dẫn nguồn AACC), số tiền đầu tư vào quảng cáo trên thế giới trong năm 1996 có
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 19/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thể được so sánh theo những tỷ lệ sau đây.
Đồ biểu 1.5: Đầu tư vào quảng cáo các môi thể lớn trên thế giới năm 1996 (%)
Quốc Gia
Đức Áo Bỉ Đan mạch Tây ban nha Phần lan Pháp Anh Hy lạp Ai-lan
Ý
Na uy
Hòa lan
Bồ đào nha
Báo chí
68,1
59,3
41,5
68,1
47,1
72,3
47,3
55,3
35,4
62,3
37,4
56,2
72,9
24,9
Truyền hình
23,4
23,0
35,9
23,4
37,7
20,9
33,5
35,7
50,0
24,4
53,8
34,2
18,0
58,2
Truyền
thanh
4,0
10,7
9,0
4,0
9,8
3,5
7,0
3,7
7,4
7,4
4,4
6,1
5,0
7,6
Bích
chương
3,5
7,0
12,1
3,5
4,6
3,2
11,6
4,6
7,3
5,0
4,0
2,6
3,7
9,3
Điện ảnh
1,0
–
1,5
1,0
0,8
0,1
0,6
0,8
–
0,8
0,3
0,9
0,4
–
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 20/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Thụy điển | 74,2 | 18,2 | 2,4 | 4,5 | 0,7 | |||||||
Thụy sĩ | 73,5 | 9,4 | 2,8 | 13,3 | 1,1 | |||||||
Thổ nhĩ kỳ | 48,1 | 39,1 | 3,0 | 6,0 | 3,8 | |||||||
Hoa kỳ | 45,8 | 41,0 | 11,9 | 1,3 | – | |||||||
Nhật Bản | 37,7 | 43,9 | 5,0 | 13,4 | – | |||||||
(Xuất xứ: Francis Balle, Médias et Sociétés, Paris, 1999)
Ph ần của quảng cáo truyền hình hãy còn thấp so sánh với quả ng cáo trên báo chí ngoại trừ một số nướ c như Hy lạp, Ý, Bồ Đào Nha và Nhật bản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khuynh hướng chung là sự suy giảm của doanh số quả ng cáo trên báo chí. Ví dụ của Pháp cho ta thấy điều đó. Vào khoảng năm 1970, tỷ lệ qu ảng cáo trên mặt báo ở Pháp lên đến 70% nhưng nó đã tụt xuống còn 60% (1980) r ồi dưới mức 50% vào năm 1993 (47,3% trong nă m 1996). Trong khi đó, nhờ sự tự do hóa những phương diệ n thính thị v ề mặt qui chế (bởi vì qui chế truyền hình gắt gao hơn là qui chế báo chí) , quảng cáo truyền hình từ 15% (1980) đã chiếm hữu 34% thị trường vào năm 1998.
Có một tương quan gần gũi giữa quảng cáo và kinh tế. Cứ y như rằng những năm kinh tế suy thoái hay trì trệ, đầu tư vào quả ng cáo cũng suy giảm theo cùng một nhịp điệu. Thử lấy ví d ụ c ủa Nhật Bản. Ở quốc gia này, nếu lấy chỉ s ố về thành trưởng kinh t ế và chi tiêu cho quả ng cáo cả hai là 100 cho năm 1985, thì năm 1997, chỉ số phát triển kinh tế là 159 trong khi chỉ số về tăng gia chi tiêu cho quảng cáo là 171. Người ta nhận thấy hai sự tăng trưởng đi song song v ới nhau và cả hai đều thụt lùi như nhau vào những năm 1992 và 1993, thời mà kinh tế Nhật “vỡ bong bóng” (collapse of economic bubble) .
Hãy thử xem sau đây bảng đối chiếu số tiền bỏ ra chi tiêu cho quảng cáo vào năm 1990 trong mười quốc gia để tâm nhi ều nhất vào việc quả ng cáo (theo Bạch Thư của cơ quan nghiên cứu Nikkei, 1993). Điều đáng chú ý là Mỹ và Tây Ban Nha tiêu nhiều nhất so vớ i mức tă ng trưởng của tổng sản lượng quốc gia (2,4%) trong khi Thụy Sĩ (612,6 đô la ) là nước vượt cả Mỹ (512,6 đô la / một năm) về tiền chi tiêu cho quảng cáo tính trên đầu người.
Đồ biểu 1.6 : Chi tiêu về quảng cáo của 10 nước trên thế giới trong năm 1990 (đơn vị : triệu đô-
la) và trên đầu người (đơn vị: đô la)
Hãng
Quốc gia
Số tiền chi tiêu
Tỉ lệ với mức
tăng trưởng (%)
Chi tiêu tính trên đầu người
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 21/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1 | Mỹ | |
2 | Nhật | |
3 | Anh | |
4 | Đức | |
5 | Pháp | |
6 | Tây ban nha | |
7 | Gia nã đại | |
8 | Ý | |
9 | Hòa lan | |
10 | Thụy sĩ | |
128640,0 | 2,4 | 512,6 | ||
38433,6 | 1,2 | 311,2 | ||
15816,4 | 1,7 | 275,1 | ||
13944,4 | 1,2 | 224,9 | ||
12892,9 | 1,2 | 228,4 | ||
10350,2 | 2,4 | 263,2 | ||
7013,5 | 1,4 | 266,7 | ||
5709,7 | 0,6 | 99,1 | ||
4334,7 | 1,7 | 290.3 | ||
4098,0 | 1,9 | 612,6 | ||
Xuất xứ: Bạch Thư Nikkei, Tokyo, 1993
Chúng ta biết rằng để bán được món hàng, xí nghi ệp sử dụng nhiều phương thứ c truyền thông để ra mắt khách hàng và những phương tiện đó đượ c mở rộng và tăng cường cùng với thời gian và những biến chuyển c ủa xã hội. Quả ng cáo chỉ là một trong những hoạt động đó. Không những người bán hàng phải đưa món hàng đến tay ng ười mua mà còn phải đưa người mua đến với món hàng. Không nhữ ng quảng cáo trong ngắn hạn mà còn phải quảng cáo v ề lâu về dài. Không chỉ chú ý đến vai trò thương mại của xí nghiệp mà cả đến chức năng xã hội của nó nữa.
Theo R.Leduc , chức năng xã hội của xí nghiệp khiến nó phải đạt được sự giao cảm giữa những
định chế xã hội(communication institutionnelle (P)) với nhau (ý kiến chung của những định chế
ấy tạo thành dư luận). Những định chế ấy là đại chúng ( người ngoài phố) nghĩa là quần chúng
khônglà đích nhắm (public cible (P)) của quảng cáo, quầnchúng bàng hệ (chức sắc, nhà cầm
quyền địa phương), giới cung cấp nguyên vật liệu hay thương phẩm, khách hàng, đoàn thể
người tiêu thụ, nhân viên của hãng, những người dẫn đầu dư luận (opinion leader) như nhà
báo, nhà giáo và các viên chức ngành nghề. Những hoạt động nhằm đạt được sự cảm thông và
đồng tình đó gọi là quảng báo hay giao tế xí nghiệp (relation publique hay PR =Public
Relations). Gần gũi với quảng báo là quảng cáo định chế (publicité institutionnelle (P)) như
trường hợp những phim tài liệu, những bài báo (publicité redactionnelle), (P) biện hộ, thông báo
cho một hãng buôn, một đoàn thể xã hội hoặc thương phẩm dưới trách nhiệm của những định
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 22/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
chế truyền thông (nhật báo, hãng truyền hình) chứ không phải của chính xí nghiệp.
Chức năng thương mại của xí nghiệp đòi hỏi nó phải sử dụng những thủ pháp khuyến mãi ngoài quảng cáo.Khuyến mãi (Sales Promotion) mới được s ử d ụng có qui cũ từ nhữ ng năm 1960, có mục đ ích ngắn hạn (vì dùng dài hạn sẽ rất tốn kém mà lại nhàm đi). Nó có th ể nhắm người bên ngoài (Outer Promotion) hãng như người khách mua (Consumer Promotion) (hạ giá, xổ số, tặng quà),. Nó có nhắm người cộng tác (Inner Promotion) nh ư người bán sỉ (Trade Promotion) (bằng cách chia lời), người làm công (Employee) (tăng lương, đặt tiền thưởng), cửa hàng (Point Of Sales Promotion) (chỉ cách trình bày món hàng bán, cố vấn về mặt hàng). Sau đó mớ i đế n quảng cáo (Advertising) bằng những môi thể truyền thông hoặc cá nhân hoặc đại chúng mà chúng ta sẽ phân biệt rõ ràng hơn trong chương kế tiếp.
CHƯƠNG HAI
QUẢNG CÁO TRUYỀN
HÌNH, ĐẶC TÍNH VÀ MỤC
ĐÍCH
Trong trường hợp của quảng cáo trên truy ền hình chẳng hạn, mô hình sáu giai đoạn của Wilbur Schramm về truyền thông mà chúng ta đã đề cập đến trong chương trước có thể biểu diễn như sau:
- Nguồn tin (Source) , người thông báo (Communicator) là chủ quảng cáo tức người cậy quảng cáo (Sponsor, Advertiser);
- Hệ thống thu tín hiệu (Encoder) bao gồm hãng quảng cáo, hãng làm phim quảng cáo (Advertising Agency , Filmmaker)
- Thông điệp (Message) không gì khác hơn là phim quảng cáo (Promotional film hay TVCF)
- Hệ thống giải tín hiệu (Decoder) là đài truyền hình (Television company) , máy truyền hình (Television post)
- Đích nhắm (Destination) là khán thính giả truyền hình (Audience) và người tiêu thụ sản phẩm (Consumer).
- Hiệu quả (Effects) Thái độ (Attitudes) của người nhận tin nghĩa là mua hàng hay không, nói tốt hay nói xấu về món hàng với kẻ khác. Tất cả những điều đó sẽ được xem như là tin tức vọng lại (Feedback) về phía người phát tin dưới hình thức điều tra về doanh số hay ý kiến của khán thính giả.
Sugaya và Nakamura (2000) đã dự a trên mô hình phóng thanh truyền hình Bắc Mỹ để vẽ sơ đồ sau đây nói về sự phân vai (stake holding) của những bên liên hệ trong
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 23/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
quá trình quảng cáo bằng môi thể. Chiều các mũi tên xin được đọc theo thứ tự từ trên xuống dưới như sau:
- Người tiêu thụ mua sản phẩm và dịch vụ của chủ quảng cáo.
- Chủ quảng cáo trả tiền mướn khâu giờ trên đài và trả tiền chế tác tiết mục cho đài phóng thanh truyền hình.
- Đài trả lui tiền hoa hồng cho hãng quảng cáo.
- Hãng quảng cáo đề nghị phương án làm việc cho chủ nhân quảng cáo.
- Nếu đồng ý, chủ quảng cáo nhờ hãng quảng cáo thi hành phương án.
- Hãng quảng cáo thương lượng với hãng sáng tác để chế tác phim và hãng chuyên môn về môi thể để mua giờ phát sóng.Hãng sau này đã giữ độc quyền về các khâu giờ.
- Đài trả tiền huê hồng cho hãng chuyên môn môi thể đã bán khâu giờ phát sóng
hộ cho họ.
- Đài phát sóng phóng ảnh đến khán thính giả, đồng thời là giới tiêu thụ.
- Chủ quảng cáo nhờ hãng điều tra xem xét hiệu quả quảng cáo và hiệu quả thương mại.
- Hãng quảng cáo nhờ hãng điều tra xem hiệu quả công việc mình làm.
- Đài phóng ảnh nhờ hãng điều tra hiệu quả của công việc mình làm.
- Hãng điều tra thu tín hiệu máy quan trắc tự động hay gặp gỡ người tiêu thụ để xúc tiến điều tra.
Xin đối chiếu các tiết mục trên với đồ biểu sau đây :
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 24/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quảng cáo là hình thức thông tin với mục đích thuyết phục và nói theo F. Balle (Les Médias, 2000) nó là ” con đẻ của tuyên truyền nhưng không phục vụ người cai trị mà phục vụ con buôn, vận dụng nhữ ng thủ pháp từ quyến rũ đến lập luận”. Ông đã dẫn chứng b ằng mô hình về thuyết phục đề nghị bởi Ph. Breton (1996) (có sữa đổi đôi chút bởi thuật giả) như sau :
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 25/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quảng cáo đã tr ưởng thành song song vớ i nh ững phương tiệ n truyền thông đại chúng từ những năm 1930 và nương dựa lẫn nhau để đi đến chỗ thành lậ p khoa học quảng cáo, môn học có tính cách ” nhân vă n ” (humanities) và đồ ng thời, môn h ọc ” đa khoa ” (multidisciplinary) vì chia sẻ những đi ểm chung với các ngành khác như khoa kỹ thuật viễn thông, kinh doanh, tâm lý và xã hội học…
Quảng cáo truyền hình không những sử dụng phương tiện thuyết phục là ngôn
ngữ mà còn bằng hình ảnh và những yếu tố tín hiệu khác…Chủ yếu vẫn là hình
ảnh. Từ thời Phục Hưng, nhà phát minh và nhà nghệ thuật đa tài người Ý
Leonard de Vinci đã đánh giá thị giác là người anh cả của ngũ quan. Người
Việt Nam cũng coi con mắt như ” cửa sổ của tâm hồn “. Thính giác có hiệu
năng không kém nhưng chỉ đóng vai trò thứ yếu, bổ túc cho đôi mắt. Chính vì
thế mà truyền hình, môi thể truyền thông khai triển được khả năng của cả hai
giác quan nói trên, đạt hiệu năng vượt tất cả các phương tiện khác, được dùng
nhiều nhất trong ngành quảng cáo thương mại.
*
Quảng cáo thương mại truyền hình, trong các quốc gia Âu Mỹ thường được gọi
tắt là TVCM, giản lược từ chữ Anh Television Commercial Message mà chúng
tôi mạo muội gọi là ” thương điệp truyền hình”. Một thương điệp như thế bao
gồm ba yếu tố : hình ảnh, ngôn ngữ, âm nhạc, và là một thủ pháp truyền đạt đại
chúng vì nó được gửi đến đối tượng bằng những môi thể truyền thông hàng
loạt ( người Trung Quốc hiện đại gọi là truyền môi ) như báo chí, truyền thanh
và truyền hình.
Quảng cáo truyền hình đã chính thức ra đời tại Mỹ ngày 1/7/1941 trên đài WNBT ở New York, đúng 8 giờ sáng qua thương điệp (CM hay commercial message ) cửa hàng đồng hồ Bulova, sau khi quảng cáo thương mại trên truyền hình được Ủy ban Thông Tin Liên Bang (FCC hay Federal Communication Commission) chấ p nhận trên nguyên t ắc. Kể từ tháng 5/1942, có đến 10 đài phát hình thương điệp và th ương điệp đầu tiên được phóng đi trên mạng truyền hình (Network) là của hãng dao cạo râu an toàn Gillette xen kẽ giữa trận đấu giải vô địch quyền Anh của võ sĩ Joe Louis ở Yankees Stadium (19/6/1946). Khoảng năm 1952, ở Mỹ đã có đến 109 đài truyền hình thương mại trên 65 đô thị phát sóng đến 17 triệu nóc gia.
- Nhật, thương điệp truyền hình đầu tiên được phóng từ đài NTV (Nippon Television) ngày 28/8/1953 lúc 12 giờ trưa để giới thiệu đồng hồ Seiko của hãng Hattori Tokei (nay là Seikosha, gọi tắt là Seiko) qua bản thông tin giờ giấc (Seikosha Báo Giờ Ngọ) , hai năm sau khi trên làn sóng truyền thanh Radio Nagoya, kem đánh răng Sumoka giới thiệu sản phẩm của mình. (1/9/1951).
Theo Th. Fabre, ở Pháp, quảng cáo truyền hình chỉ mới đến với khán thính giả năm 1968 trên đài số một (TF1) nhưng đã phát triển hết s ức nhanh chóng để đến năm 1990, chi phí quảng cáo truyền hình chiếm 25% tổng số món tiền
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 26/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
dùng vào quảng cáo..
Từ bu ổi đầu trở đi, thương điệp trên truyền hình đã biến chuyển qua nhiều giai đoạn. Từ đen trắng chuyển qua màu, từ đặt trọng tâm vào hoạt hình đến lúc đặt trọng tâm vào ca nhạc hay diễ n viên tài tử, nó đã bước vào thời đại thương điệp quốc tế và đi ện tử với các đại hội quốc tế ngành quả ng cáo, với những phương tiện hiện đại như bảng thu hình theo số trị (VTR-D) và phươ ng pháp cấu tạo hình ảnh bằ ng vi tính (Computer Graphics hay (CG), các lối truyền hình b ằng đường giây cáp (CATV), bằng vệ tinh (BS) hoặc đa môi thể (Multimedia) trước khi bước đến quảng cáo trên mạng (Web Advertising). .
Để định nghĩa Thương Điệp Truyền Hình ta có thể xem nó như một ” thông tri
truyền đạt tin tức nhằm thuyết phục, bằng phương tiện truyền hình đại chúng
cho một mục đích thương mại trong một khoảng thời gian ngắn”. Thương
điệp nầy là công cụ quảng cáo (Advertisement) phát xuất từ một hoạt động
quảng cáo (Advertising), có mục đích quảng bá (Propaganda) nhưng không
phải là tuyên truyền chính trị (Political Propaganda) dầu nó có thể trở thành
như thế ngoài ý muốn. Như đã nói, cũng cần phân biệt quảng cáo truyền hình
với Giao Dịch Xí Nghiệp (Public Relations), một hình thức quảng cáo qua sự
giao tiếp giữa người với người, cũng như cần phân biệt nó với Quảng Báo
Công Ích (Advertising Public Utility), loại quảng cáo với mục đích bá cáo
đường lối, chủ trương của chính phủ vì lợi ích công cộng (khuyến khích dân đi
bầu cử, hạn chế sinh đẻ để chống nạn nhân mãn…). Cũng nên tách nó ra các
hình thức quảng cáo tại địa điểm bán hàng (Point of Sales hay POS), nơi mà
người bán hàng tiếp xúc trực tiếp với người mua. Quảng cáo truyền hình nằm
trong lĩnh vực Quảng Cáo Tốn Tiền (Paid Publicity) vì muốn giữ giờ phóng
ảnh (Time On Air) trên đài, người cậy quảng cáo phải trả một món tiền nào đó,
nhiều khi rất cao. Quảng Cáo Không Mất Tiền (Non Paid Publicity) là những
lời quảng cáo không thông qua môi thể đại chúng, không tốn kém, như mách
nước, chỉ dẫn hay đồn đại…
Như tất cả mọi hình thức quảng cáo khác, quảng cáo truyền hình có bốn chức năng :
- Chức năng kinh tế : Quảng cáo truyền hình thông tri, báo cáo với người xem về sự ra đời hoặc sự có mặt của một mặt hàng. Trong thời đại sinh sản hàng loạt, nó thôi thúc sự tiêu thụ của khách hàng vốn chuộng những sản phẩm mới. Nó khai thác những nhu cầu tiềm ẩn của người tiêu thụ, lập lại thế quân bình giữa cung và cầu cũng như góp phần vào việc phân phối lợi tức trong xã hội. Sản phẩm ra càng nhiều thì giá thành càng rẻ và người mua có cơ hội mua rẻ và nâng cao chất lượng mức sinh hoạt của mình (standard of living).
Nhược điểm củ a nó là thúc đẩy người ta ăn tiêu hoang phí, lôi cuốn con người bắt ch ước nhau tiêu thụ theo thời trang, khơi gợi những lối tiêu thụ ki ểu bốc đồng, nghĩa là mua mà không nghĩ trước nghĩ sau. Nó thường bị xem như là một công cụ của chế độ tư bản chỉ để tạo ra hố thẳm giữa kẻ giàu và người nghèo.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 27/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Chức năng thương mại: Quảng cáo truyền hình thông tri với xã hội vai trò của xí nghiệp, đường lối hoạt động của nó. Quảng cáo cũng đốc thúc xí nghiệp góp phần vào việc phục vụ khách hàng và xây dựng xã hội. Nó khuyến khích xí nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động của mình. Nó tạo danh tiếng cho nhãn hiệu (Brand) và nâng cao tinh thần của nhân viên (Inner Moral Up).
Đi ểm yếu của quả ng cáo trong phạm vi này là nó gây ra khoảng cách gi ữa các xí nghiệp, làm chi phí quảng cáo tăng vọt (hãng mỹ phẩm Estee Lauder tiêu 30% tiền bán hàng chỉ riêng vào việc quảng cáo), làm cho các mặt hàng đo ản mệnh (shorten product life cycle), vừa mới ra lò đ ã thành lỗi thời vì có mặt hàng mới ra ngay sau đó. Có khi nó còn làm hình ảnh xí nghiệp tệ hại đi vì những lời quảng cáo bôi bác lẫn nhau.
- Chức năng xã hội : Quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng giáo dục người tiêu thụ (advertising educates consumers) .Quảng cáo truyền hình mở rộng tri thức, nâng cao mức độ suy nghĩ, phán đoán của người tiêu thụ, dạy người ta về cách dùng các mặt hàng và giúp người ta quyết định mua món hàng nào. Nó vừa là tư liệu của nội dung truyền thông đại chúng, vừa là lý do để người tiêu thụ bắt đầu biết quan tâm tới món hàng mình tiêu dùng. Nó khiến cho người ta đòi hỏi những mặt hàng ra đời phải đúng theo qui trình và yêu cầu của xã hội. Nó giúp người ta tiết kiệm được thời giờ tìm hiểu (reduce search time) vì giúp họ biết ngay ưu điểm của một mặt hàng.
Tuy nhiên, những kẻ chống đố i nó cho rằng quảng cáo chỉ đưa ra những tin tức hời hợt, nhiều từ hoa (rhetoric ) hơn là sự thực. Quảng cáo truyền hình lại xô đẩy con người thờ phụng tiền bạc và mê luyến nhu cầu vậ t ch ất, phá hoại môi sinh vì tiêu phí không ngừng tài nguyên thiên nhiên, khơi g ợi lòng tham và khiến người ta chỉ nghĩ đến những lạc thú nhất thời, không thiết gì đến ý nghĩa của cố gắng và lao động.
- Chức năng văn hóa : Quảng cáo truyền hình đề nghị một nếp sống mới. Qua nó, chúng ta bắt mạch được hướng đi của xã hội. Nó là đề tài nói chuyện bất tận của quần chúng và nhờ nó, những hoạt động văn hóa, xã hội có phương tiện vật chất để thực hiện. Nó khai thác những đòi hỏi cao cả của con người. Theo nhà kinh tế học A.H. Maslow, con người ta sau khi đã no cơm ấm áo, có an ninh, sức khỏe, còn cần cả tinh yêu, lòng tự hào (Esteem Needs) về những thành đạt trong đời (Self-Actualization Needs) và có nhu cầu cống hiến cho xã hội. Dĩ nhiên, Maslow đề cập đến nhu cầu nhân bản chứ không phải nói riêng về nhu cầu tiêu thụ. Thế nhưng, được hướng dẫn bởi những nhu cầu đó, con người có thể tìm đến những sản phẩm hay dịch vụ để thỏa mãn mục đích mình đòi hỏi.
Điều đó không ngăn việc quảng cáo tạo nên một th ứ vă n hóa vật chấ t, h ời hợt, thiếu chất lượng n ếu không nói là ích kỷ, tập trung vào cá nhân và xa r ời những lợi ích công cộ ng, gây hỗn loạn và phá hoại những giá trị truyền thống tố t đẹp. Những ngày lễ Giáng Sinh, Tạ Ơn, Ph ục Sinh chỉ là cơ hội cho con buôn lợi dụng chào hàng. Những Ngày Cho Ba (Fathers?Day), Ngày Cho Má (Mothers?Day) có khác nào công cụ thương mại của các tiệm bách hóa. Về
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 28/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phương diện văn hóa, quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng
còn tạo ra những hình ảnh rập khuôn (stereotype) về người đàn bà, về người
lớn tuổi, thường thường không tốt đẹp cho lắm Hình ảnh nguời đàn bà là kẻ coi
nhà, nấu bếp, trông con, hay là đối tượng của những thèm muốn của thể xác
trong khi phụ nữ ngày nay xốc vác nhiều trọng trách xã hội. Người già trong
quảng cáo thường là những kẻ đau ốm, tật nguyền, trong khi trên thực tế, có
những ông bà lão khỏe mạnh, đầy sức lực và năng nổ.
Quảng cáo còn bị buộc t ội là hung bạo. Để thu hút sự chú ý củ a qu ần chúng, người làm quảng cáo có lúc không ngần ngại dùng những hình ảnh dữ dội và khiêu khích, nhiều khi gây xúc động mạnh nhất là đối với trẻ em.
Điểm chung của quảng cáo truyền hình với các hình thức quảng cáo khác là
trong ngắn hạn nó cũng nhằm thực hiện quá trình AIDMA nghĩa là trình tự
chú ý (Attention), để tâm (Interest), thèm muốn (Desire), ghi nhớ (Memory)
và cuối cùng dẫn người tiêu thụ tới hành động (Action)mua hàng. Trong dài
hạn, nó có nhiệm vụ thực hiện quá trình thứ hai, gọi tắt là AMTUL gồm những
yếu tố như sau : nhận thức (Awareness), ký ức (Memory), dùng thử (Trial),
sử dụng (Usage), trung thành ( Loyalty). Một quảng cáo thành công khi nó đưa
người tiêu thụ đi theo đường hướng mong muốn của người cậy quảng cáo
nghĩa là làm sao giữ được khách hàng (Customer Retention) theo tuần tự biến
thiên của các loại khách : khách thăm dò (Prospect), khách dùng thử (Trialer),
khách sử dụng (User), khách quen (Customer), khách đặc biệt (Client), khách
ủng hộ (Supporter), khách biện hộ (Advocate).
Tuy vậy, vi ệc sử dụng phương tiện truyền hình để quả ng cáo thường thường là kết quả của sự tính toán của người trách nhiệm quảng cáo v ề chiến lược môi thể (Media Strategy).Dùng môi thể nào hay phối hợp, hiệ p đồ ng các môi thể (Media Mix) đặc biệt thế nào dể đạt được hiệu quả tối đa. Cho dến nay, số liệu thống kê vẫn cho ta thấy quảng cáo truyền hình giữ vai trò then chốt trong các hình thức quảng cáo.
- SO SÁNH HIỆU NĂNG TRUYỀN THÔNG CỦA TRUYỀN HÌNH VỚI CÁC PHƯƠNG TIỆN KHÁC
Quảng cáo không chỉ được thực hiện bằng truyền hình mà còn thực hi ện vói s ự giúp sức của nhiều môi thể (Media) khác, có tính chất đại chúng (Mass Media) hay phi đại chúng:
- Quảng cáo do những người không chuyên môn như truyền miệng như mách nước, chỉ dẫn, đồn đãi trong gia đình, giữa thân hữu, thày trò.
- Quảng cáo bằng cách gói hàng (packaging), thương phẩm tự quảng cáo cho nó.
- Quảng cáo do những người làm tiếp thị (Sales Promotion ou SP) qua những phương thức như thư tín trực tiếp (Direct Mail hay DM), truyền đơn thương mại (Advertising Leaflet),bích chương dán ngoài trời (Outdoor Poster) hay các tấm biển (Billboards) trên sân vận động , trên bến xe hay trong các phương tiện giao thông ( Transportation Facilities) như trên xe điện, xe
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 29/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
buýt, cạnh các quầy bày hàng (Point Of Purchase hay POP), bằng cách in trong các tập danh mục điện thoại (Telephone Directory) hay trong các phòng triển lãm (Exhibition, Show Room).
- Quảng cáo cá nhân bằng những môi thể điện tử như trò chơi điện tử (Games), môi thể mới như truyền hình bằng mạng dây cáp (CATV), truyền hình vệ tinh (Broadcasting Satellite), mạng Internet (Internet Site).
- Quảng cáo đại chúng bằng 4 môi thể truyền thông đại chúng : báo chí (Newspapers), tạp chí (Magazines), truyền thanh (Radio) và truyền hình bằng sóng điện (Television).
M.K. Baker (trong t ập sách viết chung với Monye, Sylvester) đã so sánh điểm mạnh và điểm yếu giữa truyền hình và các môi thể khác qua bảng tóm tắt sau đây:
Đồ biểu 2.3: Bảng so sánh ưu khuyết điểm của các môi thể quảng cáo
Môi thể
Ưu điểm | Khuyết điểm | |
Nhật báo
-Địa bàn rộng
-Bao trùm nhiều lớp người
-Giá rẻ
-Co giãn
-Tạo phong trào nhanh chóng -Tiêu thụ nhanh
-Không lâu dài
-Không bộc lộ ra ngoài
-Không gây ấn tượng mạnh vì trình bày kém mỹ thuật
-Không lôi cuốn
Tạp chí
Truyền hình
-Trình bày mỹ thuật gợi chú ý
-Đối tượng độc giả rõ ràng -Trình độ người đọc cao -Giữ được lâu dài
-Có th ể đưa ra tin tức có chất lượng
-Uyển chuyển vì dùng được cả hình ảnh, chữ viết, âm thanh, động tác
-Được trọng vọng
-Tầm phóng xa
-Mất nhiều thời giờ để gây phong trào
-Thiên về hình ảnh
-Mất thời giờ để tạo ấn tượng
-Giá cả trung trung
-Cần lập đi lập lại
-Không dùng được lâu dài -Giá tuyệt đối thì đắt -Tản mạn thông tin -Hỗn tạp
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 30/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Truyền thanh
Ngoài trời (Outdoor)
-Bao trùm phạm vi lớn -Giá tương đối thì rẻ
-Tuyể n chọn được đích nhắm
-Giá rẻ
-Nhu nhuyễn
-Trực tiếp trò chuyện với khách hàng
–
-Khu vực rộng
-Thay đổi được nhiều lần -Giá rẻ
-Phương tiện phụ đáng lưu ý -Có tính địa phương
-Không gây được ấn tượng
-Giới hạn trong vòng âm thanh
-Không tậ p trung sự chú ý của người nghe
-Không được trọng vọng.
-Không được trọng vọng (nhưng có thể cải tiến)
-Thời gian chế tác lâu la -Khó đo lường hiệu năng
Giao thông
Trong tiệm (Indoor POP)
-Độ lộ xuất lớn
-Giá thành rẻ
-Có tính địa phương
-Tập trung sự chú ý lớn -Có tính thuyết phục -Giá rẻ
-Nhu nhuyễn
-Bao trùm phạm vi hẹp
-Đích nhắm (hành khách) mà thôi
-Hỗn tạp
-Đích nhắm (khách đến tiệm)
mà thôi
-Dễ gây lẫn lộn
-Hỗn tạp
Xuất xứ : Baker, Monye, Sylvester, The Handbook of International Marketing Communication, USA, 2000.
Đứng về mặt kinh tế mà nói, quảng cáo lối nào mới có lợi? Shinya và nhóm Sendenkaigi cho
biết ở Nhậ t Bản, tổng số chi phí quảng cáo trong nă m 1999 được ước định là 5700 tỷ Yên, tương đương với 47 tỷ rưỡi đô-la Mỹ, mà trong đó tiền đổ vào 4 môi thể đại chúng đã chiếm tới
64%. Bốn môi thể đại chúng hấp dẫn ở chỗ là mỗi l ần đưa một thông tin quảng cáo đến người nhận tin (Audience), chủ quảng cáo chỉ trả một giá rất rẻ khi so sánh vi ệc sử dụng những môi thể khác (trừ những môi thể truyền miệng). Ng ười chủ quảng cáo Nh ật chỉ tốn 0,5 Yên cho mộ t lần thông tin bằng thương điệp lẻ (sẽ giải thích sau) trên truyền hình, 1,3 Yên nếu dùng thương điệp
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 31/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
lồng (sẽ giải thích sau) trong chương trình, 0,2 Yên nếu mượn làn sóng truyền thanh và 1,6 Yên nếu đăng tải trên mặt báo, 2,7 Yên n ếu dùng tạp chí. Trong khi ấy, truyền đơn xen vào và phát cùng một lượt v ới báo (Origami hay Leaflet) trung bình tốn 16 Yên và thư tín trực tiếp (Direct Mail, Postcard) tốn đến 104 Yên.
Ngoài sự cách biệt về giá cả, còn có sự cách biệt v ề hiệu n ăng. Truyền hình bằng sóng đi ện không nh ững là môi thể ít tốn kém nhất mà còn là môi thể có nhiều hiệu năng nhất trong việc thông tin và thuyết phục khách hàng. Hãy thử so sánh thêm truyền hình với các môi thể khác:
1. So sánh với ấn phẩm
Nhật báo và tạ p chí là những ấn phẩ m, có khả năng truy ền đạ t qua chữ viết và hình ảnh. Phần chính yếu củ a ấ n phẩm vẫ n là ký sự b ằng văn tự , nhữ ng hình ảnh tĩnh chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Truyền hình thì khác: chủ yế u là hình ảnh động. Bao nhiêu thứ như chữ viết, ngôn ngữ, âm nhạc, âm hưởng…bổ túc hiệu năng của hình ảnh. Nhờ hình ảnh, truyền hình mang đến cho người xem sự s ống động, hiện thực c ủa việc xảy ra trước mặt. Điều đó không thể nào tái hiệ n được qua nhậ t báo hoặc tạp chí. Đối với quảng cáo chủ (sponsor), truyền hình như đem thương phẩm phô bày ra trước mắt khách hàng, mục tiêu của thương điệp.
Điểm khác nhau thứ hai giữa ấn ph ẩm và truyền hình là ấn phẩm có thể đ em đi theo trong xe, lên máy bay xem, giữ gìn lâu dài trong nhà, trong thư viện, chuyề n tay người này người kia xem. Thương điệ p qua truyền hình thoặt đến, thoặt đi, không giữ gì được mà có giữ được thì cũng khá cầu kỳ, mất công.
2. So sánh với phóng thanh
Ban đầu, phóng thanh và truyền hình vẫn đi đôi với nhau. Hai môi thể có nhiều điểm tương đồng
như việc nghe và xem đều không phải bỏ tiền ra, và nhiều nhà sản xuất thương điệp vừa làm ở
đài phát thanh lẫn đài truyền hình. Có thể xem truyền hình như cánh tay nối dài của phát
thanh. Tuy nhiên, người ta có thể nghe ra-di-ô khắp mọi nơi, trong lúc đang lái xe, khi làm cơm
và ngay cả khi dang ngủ. Ngược lại, xem truyền hình dù có thể làm việc khác cùng lúc nhưng
điều đó đòi hỏi một sự tập trung tối thiếu cho nên nhiều thương điệp, nếu phóng ra vào lúc người
xem bận tay, thường có khuynh hướng chú trọng vào lời nói hơn là hình ảnh.
Phát thanh và truyền hình hay dùng thủ pháp “quảng cáo liên hợp”(IC hay Integrated
Commercial), trong đó nội dung chương trình thông tin hay giải trí nói chung và thương
điệp quyện vào nhauthành một. Điều này không được cho phép trong trường hợp ấn phẩm bởi
vì trên mặt báo, quảng cáo và ký sự bắt buộc phải tách riêng. Lý do đơn giản là nếu một ấn phẩm
dùng lối quảng cáo hội nhập như thế, môi thể ấn loát sẽ mất sự tín nhiệm của độc giả. Khán thích
giả truyền hình dễ dàng hơn về vấn đề này, có lẽ vì trong suốt mấy ngàn năm, vài trò “văn kiện
chính thức” của chữ viết đã in dấu sâu đậm nơi người đọc.Hơn nữa, ta khó lòng tưởng tượng có
thể có chủ quảng cáo tham gia vào việc soạn ký sự cho tờ báo hoặc tạp chí được. Việc này xảy ra
dễ dàng hơn đối với lời rao hàng trên làn sóng phát thanh hoặc truyền hình.Dù sao, chúng ta thấy
trong các nuớc Âu Mỹ, người ta rất nhạy cảm về việc ” đồng hóa quảng cáo với ký sự “
(publicité rédactionnelle(P)) vì họ nghĩ đó là việc kém nghiêm túc nếu không nói là có dụng ý
xấu vì đầu óc khoa học (cartésien (P)) của họ muốn phân biệt ” hư ” và ” thực “. Nhật Bản dễ dãi
hơn cho nên nhiều nhà nghiên cứu phương Tây vẫn lên tiếng chỉ trích hiện tượng này.
Xem truyền hình hay nghe phát thanh là một hành động có tính chất cá nhân lẫn tập thể nhưng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 32/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
xem báo hay tạp chí hầu như là một hành độ ng đơ n lẻ. Dĩ nhiên khi hành động đơn lẻ thì có độ chú ý cao hơn. Riêng lúc xem báo c ũng như nghe truyề n thanh chỉ có thị giác ho ặc thính giác làm việc. Trong khi ấy, xem truyền hình phải vận dụng cả hai giác quan nên khả năng thu nhậ n tín hiệu tăng gấp b ội. Lucas và Britt (Advertising Psychology and Research, Nghiên Cứu Tâm Lý Quảng Cáo,1950) cho biết là trước câu hỏi nếu chỉ có quyền giữ được một giác quan mà thôi thì người ta sẽ phải giữ lại giác quan gì, phần đông nguời đượ c hỏi đều đáp sẽ chọn giữ lại thị giác đến cuối. Hai nhà nghiên cứ u trên đ ã dẫn lời phát biểu của nhà tâm lý học Metfessel nh ư sau ” Tri thức mà một người bình thường tiếp thu được có đến 65% qua đường thị giác, 25% bởi thính giác và 10% còn lạ i bằng hoặc xúc giác, vị giác hay khứu giác”. Từ đó, họ đánh giá cao vai trò của môi thể truyền hình vì nó có khả năng chuyển tín hiệu đến hai giác quan mạnh nhất (thị, thính giác) cùng một lúc.
HL Hollingworth (The Psychology of the Audience, Tâm Lý Khán Giả 1935) đã lập đồ biểu như sau:
Đồ biểu 2.4: Độ ghi nhớ tín hiệu theo giác quan thụ tín
Độ ghi nhớ (%)đo ngay | Độ ghi nhớ (%) tàn dư 3 | |||||
sau lúc tiếp tín hiệu | hôm sau | |||||
Chỉ sử dụng thính giác | 71 | 10 | ||||
Chỉ sử dụng thị giác | 72 | 20 | ||||
Sử dụng thị giác lẫn | 86 | 65 | ||||
thính giác | ||||||
Điều cần lưu ý là nghiên cứu của Hollingworth chỉ dựa trên ảnh tĩ nh, nếu d ựa trên ảnh động thì hiệu quả trên ký ức sẽ còn mạ nh hơn nhiều. Nếu muốn so sánh để đánh giá xem hình ảnh và âm thanh bên nào quan trọng hơ n thì cứ nhìn giá biểu tiền bồi hoàn trong trường hợp đài truyền hình chạy không tốt khắc rõ. Nếu vì có gì mà ảnh không hiệ n ra, đài bồi thường cho ng ười nhờ phóng ảnh 75% chi phí bỏ ra, trong trường hợp màn ảnh câm, họ chỉ bồi thường có 25% mà thôi.
3. So sánh với diễn kịch
Truyền hình sử dụng kịch trường chuyên dụng (studio) để làm chỗ thu hình (thời sự, các chương
trình âm nhạc hay tiêu khiển, phim truyện, phim quảng cáo) và thủ pháp truyền hình chứa
đựng kịch tính. Tuy vậy, sân khấu và truyền hình khác nhau ở chỗ người xem kịch nhìn diễn
viên sống động trước mắt mình và diễn viên cũng giao cảm trực tiếp với khán giả (trường hợp
khán giả được mời đến tham dự những buổi thu hình không phải là không có nhưng không
thường xuyên và không khí những lúc đó cũng không bình thường vì xen giữa diễn viên và khán
giả còn có bao nhiêu chuyên viên và máy móc di động không ngừng). Trong khi đó, diễn viên
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 33/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
truyền hình chỉ đối mặt với ống kính thu hình và hệ thống ánh sáng mà người xem cũng chỉ thấy
họ qua màn ảnh. Khán giả kịch trường qui vào một nhóm nhỏ trong khi khán giả truyền hình là
đại chúng. Hành động của họ cũng khác. Xem kịch, trừ trường hợp bất khả kháng, người ta chỉ
ngồi một chỗ, chăm chú xem, chán thì bỏ đi chứ không có gì thay thế vào. Ngược lại, truyền
hình cho phép người xem di động thoải mái hơn và nếu không thích xem, có thể bấm nút chọn
đài khác và có thể bấm trở lại đài cũ. Người xem kịch ngồi ở một vị trí cố định nhìn lên sân khấu
theo một góc cạnh tương xứng với số ghế họ ngồi. Khán giả truyền hình thì được xem sự vật từ
những góc cạnh khác nhau do khả năng di động của ống kính thu hình. Câu chuyện diễn ra trên
sân khấu chỉ theo một lớp lang cố định vì mỗi màn phải được diễn ra ở một không gian nào đó.
Truyền hình đưa ta từ không gian này đến không gian khác, thời điểm này đến thời diểm khác,
cắt xén câu chuyện theo một mạch lạc khác bằng thủ pháp điện ảnh , điều mà trên sân khấu, đạo
diễn và diễn viên không thể làm. Ngoài ra, về cách diễn tả, trên sân khấu hay cường điệu, khoa
trương trong khi trong trường hợp truyền hình, động tác diễn viên phải tự nhiên như người thật,
việc thật. Người đóng kịch mỗi lần lên sân khấu là một lần thắng phụ, không được diễn sai hay
nói hớ (dĩ nhiên có người nhắc tuồng (prompter) nhưng sự hỗ trợ này chỉ đến một giới hạn nào
đó). Truyền hình có đủ thời giờ và phương tiện để giúp diễn viên nói đúng câu đúng chữ. Đạo
diễn cắt xén (cut) liền tay, đòi hỏi diễn viên diễn đi diễn lại nhiều lần, chỉ lựa đoạn phim hoàn
chỉnh nhất đưa lên màn ảnh. Ngày nay, kỹ thuật đã đi đến chỗ tinh vi, ta khó phân biệt được
chương trình nào là thu hình trực tiếp, chương trình nào là dàn dựng trong phim trường.
4. So sánh với điện ảnh
Truyề n hình giống điện ảnh ở chỗ truyề n hình sử dụng những phương pháp thu hình, thu âm, chiếu sáng và tác động đặ c bi ệt (special effects) của đi ện ảnh. Lịch sử của truyền hình có thể xem như lịch sử điện ảnh nối dài. Tuy nhiên, không vì thế mà ta bỏ qua những dị biệt giữa hai bên.
Trước tiên, ch ất lượng hình ảnh của truyền hình kém xa điện ảnh về độ rõ, v ề độ tương phản, về độ tinh t ế củ a màu sắc (điề u này có thể thay đổi nhờ hệ thống HDTV) . Màn ảnh củ a truyề n hình cũng bé hơn . Trong tương lai, với tiến bộ kỹ thuật, truyền hình sẽ có màn ảnh đẹp, rõ, lớn hơn như loại gắn lên tường… Hi ện nay trung bình màn ảnh chỉ có đường chéo khoảng 21 inch (21*2,54cm=53.34 cm). Sự kiện màn ảnh nhỏ thua màn ảnh rạ p ch ớp bóng có cái l ợi là khiến cho ng ười ta có tình cảm gần gũi, gia đình đố i với truyề n hình hơn là v ới điện ảnh, nhất là máy truy ền hình đặt giữa phòng khách hay phòng ngủ, trong khung cảnh tự nhiên, khác với phòng tối của rạp hát.
Một sự cách biệt khác giữa hai bên là độ tiêu phí rất lớn của truyền hình. Ở rạp chớp bóng, một ngày người ta có thể chiếu đi chiếu l ại một cuốn phim, nhưng trên màn ảnh truyền hình, dầu có sự chiếu đi chiếu lại, ph ải luôn luôn thay đổi nội dung để tránh sự nhằm chán. Người đến rạp xem phim b ởi vì có chủ ý đi xem cuốn phim đang chiếu, người xem truyền hình vì không phải cất công đi, nên khó tính hơn khi phải xem mãi một cuộn phim mình không còn thích thú. Năm 1951, theo Agnew và O?Brien (Television Advertising, Quảng cáo truyền hình , 1958), cả Holywood trong một năm trời mới làm ra 432 cuộ n phim, nếu đ em nó đưa cho mộ t đài truyền hình chạy 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày thì chỉ trong vòng 36 hôm là đã c ạn phim để chi ếu. Dĩ nhiên, ngoài phim truyện, Hollywood còn sản xuất đủ loại phim (phim truyện chương hồi (series), phim ngắn từ tài liệu đến ho ạt hình…) nhưng cái “bao tử” truyền hình thật khổng lồ, nhất là khi số đài tăng nhanh thì bao nhiêu cũng không đủ.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 34/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Phim truyện thường có tính cách gi ải trí như ng để đi kèm với thương điệp quảng cáo, chưa chắc đã hoàn toàn thích hợp. Ngoài tính cách tiêu khiển (đã dành rất cần để lôi cuốn người xem), chủ quảng cáo có khi đòi hỏi những chương trình truyền hình có tính cách giáo dục để bổ sung vào điều mình muốn phát biểu (ví dụ quảng cáo kem đánh răng đi kèm với chươ ng trình y khoa nói về những chứ ng bịnh do thiếu v ệ sinh về răng mà sinh ra) bởi vì nguyên tắc quảng cáo vốn dựa trên hai điểm then chốt: tri thức và ký ức.
5. So sánh với phim giáo dục
Giáo dục bằng phim ảnh là phương pháp đã được dùng từ những năm hồi Đại Chiến Thứ Hai
trong lĩnh vực quân sự (phim huấn luyện = training film) ở Mỹ và sau đó phổ biến trong hãng
xưởng và trường học (theo điều tra của Phillips Justin Rulon (1933, dẫn bởi Agnew va O?Brien)
trong việc dạy khoa học, dạy bằng phim nâng thành tích sinh viên hơn 20,5% và nâng độ ký ức
lên 38,5% ). Người xem phim giáo dục có một mục đích sẵn là tìm hiểu cho nên phim giáo dục
có thể mang lại cho họ sự thích thú hơn là lời giảng khó khăn của một ông thầy. Tuy nhiên,
không phải phim giáo dục nào cũng lôi cuốn và phim giáo dục thường dài, bắt người ta phải tập
trung theo dõi. Truyền hình gửi những thương điệp ngắn, không bắt ai theo dõi nhưng nếu nó
không được người ta thích thì thường bị coi là “phá đám” vì đâm ngang một cuốn phim hay một
chương trình khác mà người xem coi nửa chừng.Phim giáo dục hơn được quảng cáo truyền hình
- chỗ nó thiên về giải thích và một cuốn phim giáo dục hay có thể đoán trước sự thắc mắc của người xem để mà giải thích đó là chưa nói giáo viên hay người bán hàng đứng bên cạnh cũng nhân tiện trả lời những câu hỏi của học viên hoặc người mua hàng (talk-back circuits), vai trò mà quảng cáo truyền hình, vì tính cách đại chúng, không thể đảm nhiệm. Ngoài ra, việc dùng hình ảnh cụ thể còn có hiệu quả đặc biệt trong việc giải thích những ý niệm trừu tượng, nó giúp cho người ta hiểu rõ ra và nhớ lâu hơn (theo Walter Lippmann).
Phim truy ền hình khác với phim giáo dục là th ườ ng do những nhân vật có tiếng tăm chủ diễn, nên có sự hấp dẫn đặc bi ệt với người xem hơn là phim giáo dụ c. Những nhân vật ấy, mà ngườ i xem khó có dịp tiếp xúc ở ngoài đờ i, là đối tuợng của sự khao khát và tin cậy của họ nên việc sử dụng diễ n viên có ti ếng tăm rất cần thiết trong khi người diễn xuất trong phim giáo dục chỉ là một nhà kỹ thuật có trình độ cao, không hơn không kém.
II. THÁI ĐỘ CỦA QUẦN CHÚNG ĐỐI VỚI QUẢNG CÁO
Quả ng cáo truyền hình nói riêng và quảng cáo nói chung không thể thực hiện ở chỗ không người. Vì thế sự đ ánh giá và phê bình c ủa quần chúng đối v ới quảng cáo là một điều cần lưu ý hết s ức. Dù lời phê bình có nghiêm khắc đến đâu đi nữa, nếu người làm quảng cáo không l ắng tai nghe thì e anh ta sẽ mất chỗ đứng trong một thị trường mà sự cạnh tranh ngày càng găng.
Trong các nướ c Tây Âu, quả ng cáo là một công cụ không thể thiếu được trong việc phát triển kinh t ế, và do đó, nâng cao mức sống củ a người dân. Bruce Barton của tập đoàn qu ảng cáo BBDO (Batten, Barton, Durstine & Osborne) ví quảng cáo như mồi l ửa đầu tiên để châm ngòi cho bộ máy kinh tế có thể hoạt động. Nhờ có quảng cáo, khách hàng mới biết đến sự tồn tại của sản phẩm, đặc
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 35/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
tính của chúng, những gì mới ra, nh ững gì đã cũ , cái nào đắt, cái nào rẻ , cái nào vừa tầm tay mình.Thế nhưng ngườ i không thích quảng cáo cũng không phải ít, nhất là khi quảng cáo bị lạm dụng. Quảng cáo còn bị xem nh ư đánh lừa người mua bằng những lời lẽ ngon ngọt và xâm lấn vào cuộc sống, chiếm quá nhi ều thời gi ờ của người ta. Trả lời câu hỏi “Quảng cáo truyền hình có nhiều quá hay không ? ” trong một cuộ c điều tra ở Mỹ (d ẫn bởi Agnew và O?Brien), trên 450 người trách nhiệm trong ngành quảng cáo đã phát biểu như sau:
- Quá nhiều …………………………59,5% o Không nhiều lắm…………………..28,2% o Có lẽ hơi nhiều…………………….12,3%
Không những thế, nhiều người còn cho nội dung quảng cáo là thiếu đạo đức, ấu trĩ, đơn điệu, coi thường khán giả…Hi ệp h ội các hãng quảng cáo M ỹ (American Association of Advertising Agencies, viết tắt là AAAA) trong niên báo của h ội cho biết là trong những vụ than phiền về quảng cáo thì 2/3 là của độc giả đối với các ấn phẩm, 1/3 là do khán thính gi ả đối với truyền thanh truyề n hình. Có đến 33,33% trách quảng cáo đã đư a đến hiểu lầm, 25% đánh giá nó là rẻ tiền hoặc vô nghĩa, phần còn lại cho là nó có khả năng tác hại.Tuy vậy, theo hãng nghiên cứ u Schwerin Research Corporation, trong một nướ c theo ch ủ nghĩa cá nhân kiểu Tây Phương , mỗi người một ý, một th ương đi ệp làm vừa lòng có 40% số người xem thì coi như đã thành công rồi. Không thể trách người quảng cáo ngạo mạn được vì họ phải có sự tự hào về sản phẩm họ chế tạo và bán ra, nhiều khi quá cuồng nhiệt nên b ị người xem coi là thiếu khiêm tốn. Hơn nữa, đố i với người khách một khi đã b ằng lòng về s ản phẩm quảng cáo thì cũng sẽ dễ dàng tha thứ sự quá lố của nội dung thương điệp truyền đi.
1. Quảng cáo truyền hình không phổ biến sự thật
Nếu muốn thành công lâu dài đối với khách hàng, giới qu ảng cáo ngày nay đều đồng ý là quảng cáo phải nói nên những điều l ợi ích thự c sự của món hàng. Nếu dựng ra những điề u lợi ích không có thật, về lâu về dài chỉ gây thiệt thòi cho chính người quảng cáo. Thế có nghĩa là thương điệp không được đưa ra những điều dối trá hoặc thiếu đạo đức để có nâng cao giá trị mặt hàng.
Dù vậy, đánh giá thế nào là giả dối hoặc ngay thật, đạo đức hay vô đạo đức
cũng không phải là chuyệ n dễ. Ai cũng biết chuyện hút thuốc, uống rượ u có tác hại cho sức khỏe…thế mà trong bao nhiêu lâu, thiên hạ cứ hút, cứ uống. Như vậy có ph ải cấm vi ệc qu ảng cáo rượu và thu ốc lá là đúng không? Ở Mỹ, năm 1952, Ủy ban Mậu Dịch Liên Bang ( FTC = Federal Trade Commission) đánh giá thuốc lá là dược phẩm và đặt nó trong phạ m vi thụ lý của qui chế y dược. Tòa án liên bang địa ph ương (Federal District Court) ở New York, d ựa trên định nghĩa củ a Luật về Thực Phẩm và Dược Phẩm Tinh Khiết (Pure Food and Drug Act) lại xem thuốc lá không phải là dượ c phẩm và hạ lệnh bãi bỏ việc áp dụng qui chế dược phẩm đối với thuốc lá. Từ đó, khuynh hướng cấm quảng cáo thuốc lá mới nắm ưu thế.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 36/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ngay cả việc cho phép rao “hiệu quả đặ c biệt” củ a một số y dược phẩm cũng gây ra tranh luận. Người bán thuốc đưa ra chứng cứ là thuốc chữa được bệnh, kẻ phả n đối bảo nó chỉ làm êm dịu cơn đ au…Trước sự thể đó, gi ới thẩm quyền và các đoàn thể qu ần chúng đã họp nhau lại và đòi hỏi các hãng thuốc phải khiêm tốn và thận trọng hơn trong cách rao hàng, nhất là trong lối quảng cáo truyề n hình, vì khán giả truyền hình ít có cơ hội để phán đoán chính xác nếu so sánh họ với độc gi ả một ấn phẩm vì người ta thường thận trọng hơn khi in lời rao hàng trên giấy trắng mực đen.
Chúng ta ngh ĩ thế nào v ề nh ững kiểu quảng cáo ” gồng mình ” của một chủ hãng bột giặt khi anh ta bảo sản phẩm của anh tẩy sạch ” tất cả ” mọi vết bẩn, là hiệu bột giặt ” hạng nhấ t thế gi ới “. Nhiều luật gia cho rằ ng không có chế tài nào chống l ại nh ững lời khoác lác (puffery) không kiểm chứng được như thế và xem nó chỉ nằm trong hình ảnh vốn có của một người thường khi họ nghĩ về quảng cáo.
2. Quảng cáo truyền hình có nội dung quá dung tục
Truyền hình là môi thể gia đình cho nên việc theo dõi nội dung của truyền hình
được các nhà giáo dục coi là một điều quan trọng hàng đầu. Người ta dể ý việc
những hình ảnh có tính cách bạo lực, dữ dội…trên truyền hình nhiều hơn là
những hình ảnh tương đương trên báo chí. Truyền hình tuy có đưa lên màn ảnh
những loại quảng cáo quần áo lót…v v..nhưng ít khi đả động trực tiếp. Những
hàng quảng cáo và người trách nhiệm đài truyền hình thường lập ra những qui
tắc quảng cáo và tự kiểm duyệt để khỏi đưa ra những quảng cáo chối tai gai
mắt. Tuy vậy, không phải lúc nào họ cũng chú ý vào việc đó một cách hoàn
hảo cho nên trên truyền hình vẫn nhan nhãn những hình ảnh dung tục.
3. Quảng cáo truyền hình gây bực dọc khó chịu
- Quảng cáo truyền hình cứ lặp đi lặp lại, nhàm chán, nhiều khi gây bực mình, làm khán thính giả hết chịu đựng nổi “. Đó cũng là một ý kiến thường thấy nơi quần chúng. Họ đòi hỏi thương điệp phải mới mẻ, tươi mát và không đơn điệu.Tuy nhiên, đổi mới nội dung một thương điệp một là gây tốn kém, hai là sự lặp đi lặp lại xưa nay vẫn là nguyên tắc tăng tác dụng quảng cáo nên không thể thay đổi nó một sớm một chiều được. Oái oăm là những người tỏ ra khó chịu vì sự lặp đi lặp lại một thương điệp của món hàng nào đó nhiều khi lại chạy đi mua món hàng đó trước tiên vì đã nhập tâm lời rao hàng. Đó là một khía cạnh đặc biệt của tâm lý người tiêu thụ và vì lẽ ấy, các chủ quảng cáo không có cách nào khác hơn là cho lặp đi lặp lại thương điệp. Dĩ nhiên đối với chủ quảng cáo, nếu điều kiện cho phép, người nào cũng muốn đưa ra một thương điệp được quần chúng yêu thích. Và một thương điệp được yêu thích tất có khả năng tự nhiên làm tăng doanh số cho quảng cáo chủ hơn là một thương điệp đem đến bực mình. Lịch sử quảng cáo truyền hình hãy còn quá trẻ để giải quyết vấn đề này. Đây là một lĩnh vực mà các nhà sáng tạo phim truyền hình còn có thể khai phá trong tương lai.
4. Phản ánh của khán thính giả đến người quảng cáo
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 37/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Người làm quảng cáo rất nhạy cảm đối với ý kiến của khán thính giả phản ánh
việc họ làm. Tuy nhiên, trong số người xem quảng cáo, người bằng lòng ít khi
biểu lộ, chỉ có những ai bất bình mới gửi thư hoặc điện thoại đến trách cứ về
nội dung hoặc hình thức của quảng cáo thương mại mà họ bắt gặp trên màn ảnh
nhỏ. Dù thế nào, người quảng cáo cũng phải biết hoan nghênh những lời chỉ
trích đến từ khán thính giả vì thà để họ chỉ trích còn hơn là họ lẳng lặng không
đếm xỉa gì tới thương điệp và cũng chẳng cất công đi mua món hàng được
quảng cáo. Trong nhiều nước phương Tây và Nhật Bản, các tổ chức chuyên
môn và báo chí thường hay treo giải thưởng đánh giá những tác phẩm quảng
cáo có chất lượng cao để khuyến khích các nhà sáng tạo đi xa hơn trong việc
tìm tòi và sáng tạo của họ. Nó còn nhắc nhở người làm quảng cáo trách nhiệm
xã hội cũng như đánh giá tính cách công ích (public interest) việc làm của họ.
5. Quảng cáo truyền hình làm hư trẻ con
Quảng cáo truyền hình tác hại đối với trẻ con vì nó phô trương những sản
phẩm tiêu thụ mà trẻ con dễ bị lôi cuốn, nhất là vì chúng quá non nớt để có thể chống lại những phương pháp chiêu hàng tinh vi củ a nhà quảng cáo. Ngoài ra quảng cáo gây nên sự đối lậ p giữa trẻ con và người lớn (child- parent conflict). Cha mẹ bắt buộc phải ngăn chặn, cấm cản con, và như thế tạo ra căng thẳng.
Những đoàn thể gây áp lực như phong trào Đấu Tranh Cả i Thi ện Truyền Hình Thiếu Nhi (Action for Children?s Television) đã thúc đẩy việc Quốc Hội Mỹ chuẩn y đạo luật về Truyền Hình cho Thiếu Nhi (Children?s Television Act, 1990), trong đó, người ta đã giới hạn thời giờ quảng cảo của những ch ương trình truyền hình cho trẻ em dưới 10 phút rưỡ i vào ngày trong tuần và 12 phút vào ngày cuối tuần. Tổ chức của Mỹ như Hộ i Đồng Cải Thiện Thương Nghiệp (Council of Better Business ) đã thiết lập Ủy Ban Giám Sát Quảng Cáo Truyền Hình cho Thiếu Nhi (Children?s Advertising Review Unit) có nhiệ m vụ soạn thảo mộ t tập sách hướng dẫn người làm quảng cáo cho trẻ em. Các môi thể cũng tự soạn ra đề cương riêng cho mình như chặt chẽ h ơn trong việc dùng diễn viên nổi ti ếng trong vi ệc quảng cáo và giới hạn 1/3 việc dùng phim hoạt họa trong toàn bộ thời gian phim quảng cáo.
6. Quảng cáo mời mọc những của độc
Người ta vẫn thường trách cứ quảng cáo giúp phổ biến những của độc như
rượu, thu ốc lá, súng ống, c ờ b ạc, x ổ số…Nhưng nếu vẫn cho phép bán thuốc, bán rượu ngoài phố thì kết án một mình quảng cáo thì hơi nghịch lý hoặc nguy thiện.
- NHỮNG TRỌNG ĐIỂM TÂM LÝ KHÁCH HÀNG MÀ QUẢNG CÁO MỜI MỌC
Mục đích củ a quảng cáo là mời khách mua hàng (nghĩa là mua mộ t sự thỏa mãn) nhưng để đạt được điều đó, không chỉ đưa ra những ưu điểm của món
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 38/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hàng là đủ. Phải biết tâm lý khách hàng, nắm được những động cơ và tìm hiểu được thái độ của họ.
Động cơ (motive) ngh ĩa là những yếu tố thúc đẩy hành động nhằm chiế m hữu và sử dụ ng món hàng. Nó rất phức tạp không những vì đó là nh ững yếu tố chủ quan và nhiề u khi n ằm ở tiềm thức hay vô thức.Có nh ững động c ơ tích cực nhưng lại có nh ững động cơ tiêu cực, ngăn chặn hành động mua. Bên cạnh động cơ kinh tế (lợi ích tiền bạc), độ ng cơ vị kỷ (lợi ích sinh tồn nh ư bảo vệ sức khỏe, vệ sinh, an ninh, tiết kiệm nă ng lực, tăng khoái lạc, thèm quyề n lực, chinh ph ục, thỏ a mãn tình dục), còn có động cơ vị tha (thân ái, che chở, tận tụy) cho dầu sự vị tha có thể xuất phát cả từ lòng …vị kỷ.
Thái độ (Attitude) là một trạng thái tinh thần trước mộ t món hàng. Thái độ là sự kết hợp nhiề u động cơ, tình động, cảm giác và thông tin.Nó có tính cách cá nhân, thầm kín nhưng quyết định đến cách ứng xử (mua hay không) c ủa cá nhân trước món hàng. Nếu xếp loại các thái độ, ta thấy có thái độ tích cực (tìm hiểu, thông c ảm), trung lập (không hay biết, vô thưởng vô phạt), tiêu cực (thành ki ến), quyết định (hành động mua hàng hay không) hay thuyết phục (đưa tin, mách nước người khác).
Quan sát động c ơ tâm lý khách hàng để có thể hướng dẫn họ đến chỗ có một thái độ tích cực, các nhà quảng cáo thường đặt trọng tâm vào 10 điểm sau đây:
- Thèm ăn thèm uống
- Thích luyến ái thơ mộng.
- Yêu dáng vẻ xinh đẹp.
- Muốn mạnh khỏe, không gặp cảnh nguy khốn.
- Yêu mến trẻ con.
- Thích xã giao, đua đòi.
- Thích trội hơn người khác.
- Thích du hí, giải trí.
- Thích tiện lợi, khoái chí.
- Thích sở hữu hay tiết kiệm tiền bạc của cải.
Khợi gợi sở thích không có nghĩa chỉ nhằm một sở thích duy nhất nhưng thường nhấn mạnh về một sở thích nào đó, đồng thời không quên những sở thích ph ụ thu ộc khác. Trong trường hợp khách hàng sống trong một xã hội đầy đủ sung mãn thì khái ni ệm “đói khát ” không còn có nghĩa gì với họ , muốn khơi gợi sự thèm muốn về một thứ thực phẩm nào đó thì nhà quảng cáo phải tìm cách lôi cuốn họ bằng cái “ngon miệng” của thức ăn đó.
Trên vô tuyến truyền hình, khơ i gợ i cái thèm ăn thèm uốngcủa con người là một thủ pháp thường được các nhà quảng cáo sử dụng (nh ất là số lượng thương điệp quảng cáo đồ ăn đồ uống vốn chiếm vị trí quan trọng nhất ở mỗi nơi trên thế gi ới). Trong trường hợ p này, qu ảng cáo vừa đư a ra hình ảnh lúc người ta ă n uống lẫn cảnh lúc họ đang sửa soạn món ăn và lúc người ta đã ăn xong (nhiề u ý kiến cho rằng chiếu c ảnh thỏa mãn sau khi ăn uống thường bị phả n tác dụng vì lúc đó nhu cầu đã đạt được, người xem không còn cảm thấy thèm thuồng món
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 39/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hàng nữa). Ngoài cái “ngon”, cái “bổ”, cái “rẻ”, cái “tiện”, cái “vui”…là những trọng điểm tâm lý khác mà người quảng cáo gợi ra cho khách hàng để họ gắn bó thêm với thương phẩm.
Khỏi cần phải nói, tình c ảm luyến ái thơ mộng được coi như một động cơ để xui khách hướng về món hàng. Một người trình bày món hàng (diễn viên, ca sĩ…) được khán giả yêu thích có thể chuyển s ự yêu thích đối với cá nhân họ đến s ự yêu thích món hàng.Chỉ riêng sự hiện di ện của diễn viên mà khách yêu thích trong thương điệp đ ã quá đủ d ể gây sự lôi cuốn. Nếu không, người ta có thể dùng thủ pháp “tr ước và sau khi dùng”: nhân vật trong quảng cáo trước khi có món hàng thì khó ở, s ự dùng nó xong thì thoả i mái, vui vẻ…Tóm l ại, nhờ có thuơng phẩm mà mọi sự được kết thúc một cách êm đẹp (happy end) cho nên người ta đâm ra thích thương phẩm vì nó đã dẹp được cho họ nỗi bực mình nào đó.
Sự yêu thích dáng vẻ xinh đẹp cũ ng có thể dẫn đến tình cảm luyến ái thơ mộng nh ư khi một thương điệ p về thuốc gội đầu hay quần áo sử dụng vẻ đẹ p của thân thể phụ nữ để quảng cáo. Trong trường h ợp này, ngườ i làm quảng cáo cần phải chú ý đến sự nhạy cảm của ngườ i xem vì tùy theo văn hóa và qui phạm đạo đức mỗi xã hội, nó có th ể được định nghĩ a một khác nhau.Còn về tâm lý giữ gìn sức khỏ e, trình bày hình ảnh thương tật hay bệnh hoạn trên màn ảnh nhỏ cũng phải làm sao cho được tinh tế để khỏi gây xúc động cho khán thính giả (răng sâu, tiêu chảy, khuyết tật) đó là chưa nói đến nh ững hạn chế của luật pháp đặc biệt đối với quảng cáo dược phẩ m.Tình cảm đối với trẻ con được khai thác để bán hàng cho ng ười lớn, cụ thể là nhữ ng món hàng như bảo hiểm xe cộ (đặt trọng tâm vào việc an toàn cho trẻ con), đồ ch ơi và quà bánh (sinh nhật, l ễ tết, ngày tốt nghiệp của con cái).Trẻ con thường được đưa lên màn ảnh và có tính thuyết phục đối với khách hàng vì sự thơ ngây, dễ thương của chúng.
Tính thích xã giao, đua đòi cũng được khai thác trong thương điệp. Con ng ười vốn thích chưng diện xe cộ, đồ trang sức như đ á quí, vòng xuyến…nhữ ng gì khiế n cho kẻ khác phái thèm thuồ ng hoặc trầm trồ kinh ngạc. Nó cũng nằm trên một quĩ đạo với một thứ tình cảm thường thấ y ở nơi con người: mu ốn mình vượt trên người khác Lối mời gọi nhủ “Sao bạn vẫn chưa có trong khi ai cũng có rồi!” đánh vào lòng hư vinh của con ngườ i, muốn tranh ganh với kẻ khác. Nh ững tình cảm như thích du hí, thích ti ện l ợi, thích khỏe thân là cái đích cho sự kích thích trong những thương đ iệp nói về các loại máy móc dùng trong nhà như máy điều hòa không khí, máy giặt, máy rử a bát, bàn tủ giường ghế, thuố c cạo râu…Tình cảm thích giữ của, tránh lãng phíđược khơ i gợi trong các thương điệp nói về hạ giá, trúng số (mua một biếu một), (xe hơi) ít uống xăng, (máy móc) ít tốn điện…để lôi cuốn người mua.
1. Đích nhắm của quảng cáo : Tình cảm hay lý trí con người ?
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 40/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tình cảm và lý trí con người đều là động cơ hành động tiêu thụ. Có người nghĩ lý trí
của mình điều khiển hành động tiêu thụ nhưng thự c s ự là nhiều khi tình cảm c ủa anh ta đóng vai trò chủ ch ốt trong việc này mà chính anh ta cũng không biết. Nhưng thương điệp quảng cáo mỹ phẩ m chẳ ng hạn thường dùng lời tiếp cận tình cảm vì mộ t khi đã muốn đẹp, muố n sang, ngườ i ta thường gạt lý trí qua một bên trong việc đánh giá một mặt hàng. Việ c sử dụng một diễn viên được khán giả yêu thích để giới thiệu sản phẩm là lối tiếp cận tình cảm.Trong khi ấy, các thương phẩm nh ư xe hơi, máy gi ặt, máy sấy khô qu ần áo, tủ lạnh vv… thường dùng lời tiếp cận lý trí, một phần vì giá cả đơn vị củ a nó khá cao, bắt buộc người tiêu th ụ phải suy đi tính lại, phần khác vì đặc tính của máy móc là chỉ được nhận chân qua lý luận khoa học và thử nghiệm.
Hiện nay, một quảng cáo muốn thành công thường dùng cả hai phương thức tiếp cận. Chiếu lên màn ảnh một khung cảnh thơ mộng (núi non sông hồ) chẳng hạn, sau đó đưa ra mấ y lời giải thích cụ thể về sản phẩm (máy xe chạy êm ái, xe ít uống xăng…) rồi lại đóng ngo ặc thương điệp trong một hình ảnh thơ mộng, thoải mái (thiếu nữ tươ i tắn ngồi bên cạnh ng ười lái)…tượng trưng cho lối tiếp cận tổng hợp này. Bí quyế t củ a thành công là bi ết đo li ều l ượng của lời gi ải thích khoa học để nó khỏi tiêu diệt cái không khí tình cảm, và biết thu vén cái không khí tình cảm để nó không tạo ra mâu thuẫn với lời giải thích đầy tính cách kỹ thuật kia.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 41/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2. Phân loại các đích nhắm của quảng cáo
Như ta đã biết, đích nhắm là loại quần chúng có ích nghĩa là đối tượng của sự
sản xuất hàng hóa và mặt hàng. Vì số hàng hóa rất nhiều và sở thích và đ iều kiện vật chất của mỗi khách hàng mỗi khác nên sự phân loại đích nhắm trong tiếp thị hay trong quảng cáo trở thành cần thiết vì không chỉ có một đích nhắm mà có nhiều đích nhắm. Ngườ i ta thường phân loại các đ ích nhắ m theo qui chuẩn định lượng và định tính. Qui chuẩn định lượng như qui chuẩn kinh tế xã hội (Socio-ecomic Criteria) gồm có thu nhập, tuổi tác, ngh ề nghiệp, mậ t độ dân cư của khu vực cư trú, số người dưới một nóc gia. Các qui chuẩ n định lượng (Quantitative Criteria) khác liên quan đến số tài sản, vật tư thiết bị (xe cộ , máy móc…). Qui chuẩn định tính (Qualitative Criteria) có thể định nghĩa là l ối sống (Life Styles) (ý kiến, hoạt động, thái độ, hành động) cũng nh ư nh ững qui chuẩn văn hóa xã hội (Socio-cultural Criteria) (cần kiệm hay tiêu phí, bảo thủ hay thích mới, giản dị hay xa hoa…). Sở thích đặc biệ t về một môi thể truyền thông cũng là qui chuẩn để phân loại đích nhắm và độ lộ xuất (exposure) của một người đối với nhiều môi thể là biến số cần thiết khi sử dụng quảng cáo hiệp đồng giữa truyền hình và các môi thể khác (media-mix).
Đích nhắm không h ẳn thuần nhất, nó có thể có mộ t cái lõi chắc và bao quanh bởi ngoại vi nên khi tính trị số một đích nhắm, ta có thể dùng những hệ số (coefficient) để quân đẳng hóa. Ví dụ trong một đích nhắm mà phụ nữ có hệ số 1, nam gi ới 0,5 còn người trên 35 tuổi chỉ đáng 0,2 thì nam giới trên 35 tuổi phải tính ra là 0,1 nghĩa là 05 x 0,2 chẳng hạn.
CHƯƠNG BA
NGƯỜI CẬY QUẢNG CÁO
(THE ADVERTISER, THE SPONSOR)
Gọi một ai là người cậy quảng cáo hay chủ quảng cáo (advertiser, sponsor) có nghĩ a là nhìn người đó ở cương vị kẻ trả tiền để thực hiện thương đ iệp trên một môi th ể truyền thông (trong phạm vi quyển sách này, môi thể ấy là màn ả nh truyền hình) và th ừa hưở ng nh ững kết quả mà họ trông đợi quảng cáo đó mang đến. Còn như bảo người đó có giữ bả n quyềnthương điệp hay không, người đó có chịu hoàn toàn trách nhiệmpháp lý và xã hội về nội dung thương điệp hay không, lại là một chuyện khác, điề u chúng ta cần bàn thêm. Chỉ biết người cậy quảng cáo là khách hàng (Client) của hãng quảng cáo, ngườ i cạnh tranh (Competitor) dưới mắt các đồng nghiệp anh ta. Hễ có điều gì phiền phức thì người cậy quảng cáo phải ngóng tai nghe, còn khi mọi việc êm xuôi, chẳng ai
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 42/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nhắc đến tên anh.
Người cậy quảng cáo có thể là một cá nhân, một tập thể, thường thường là một
pháp nhân như xí nghiệp chẳng hạn. Hành động quảng cáo được đặt trong tay
tập thể 4 người (đại diện cho 4 chức năng của xí nghiệp) mà ta phải kể đến là
Tổng Giám Đốc hãng hay Tổng Trách Nhiệm Hành Chánh (Administration),
Giám Đốc Quảng Cáo (Advertising), Giám Đốc Phân Phối Sản
Phẩm(Distribution) và Giám Đốc Tiếp Thị (Marketing). Tùy theo đường lối tổ
chức của mỗi hãng, có thể có những nhân vật khác tham dự vào việc quyết
định phương kế quảng cáo. Ở một hãng nhỏ, chỉ cần một hai người kiêm nhiệm
nhiều chức vụ nhưng trong một hãng tầm cỡ quốc tế như Procter & Gamble
hay General Motors của Mỹ thì mọi sản phẩm phải có một đơn vị quảng cáo
tự trị, hành động độc lập như thể là một hãng con riêng biệt. Tuy nhiên, trong
- vai trò kể trên thì người Giám Đốc Quảng Cáo là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp để điều hành công việc, nhất là tiếp xúc với bên ngoài.
I. QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA CỦA CÁC HÌNH THỨC BUÔN BÁN
Cách thức buôn bán trong kinh doanh hiện đại cũng đã trải qua nhiều đổi thay. Ngày xưa, người chế tạo mặt hàng và người bán hàng là một, như ng từ 100 năm trở lại, cùng với s ự phát triển của đại đô thị và đại xí nghiệ p, chức năng chế tạo và chức năng buôn bán đã tách rời nhau. Khi các tiểu xí nghiệp tiến lên hàng đại xí nghiệp, hoạt động thương mại trở thành một bộ phận riêng biệt, việc bán hàng trở nên mộ t nghề phải h ọc mới biết. Người bán hàng ngày nay phải đến trường học cách ăn nói, cách tiếp đãi khách, hiểu rõ mặt hàng từ phẩm chất đến giá cả để có thể đi thuyết phục người mua.
Tuy nhiên cách thức bán hàng cá nhân (personal selling) đã phải nhường chỗ cho lối bán hàng đại chúng (mass selling) từ khi phương thức sản xuất hàng loạt (mass production) ra đời. Khi số lượng hàng bán nơi một cá nhân tăng nhanh, công việc của họ phải chuyên môn hóa. C.Wright Mills nghiên cứu về thành phần dân “thầy” (white-collar) ở Mỹ cho bi ết năm 1870, ở Mỹ có 44% người trong giới này là dân bán hàng (salesmen). Con số này sụt còn có 25% vào năm 1940.Thay vào đấy, dân văn phòng tăng từ 12% lên 40%. Điều này có nghĩa là khi phương thức sản xuất hàng loạt đã đượ c đẩ y nhanh thì người ta không cầ n những anh bán hàng “chân chạy” mà chỉ cần người giữ sổ sách, tốc ký, đánh máy, đứng yên một ch ỗ. Những người này kiêm nhiệm được việc làm của người bán hàng. Dẫu ở một chỗ, họ cũng tham dự vào việc quả ng cáo, điều tra thị trường, liên lạc và hi ệp lực với các nhà buôn sỉ, buôn lẻ. Lối giao tế giữa người và người (in person) trong kinh doanh đã nhường chỗ cho những phương tiện truyền thông đại chúng (mass media, như báo chí, truyền thanh,truyền hình), hợp lý hơn để chào mời những sản phẩm sản xuất hàng loạt.
Sự phai mờ của chức năng nhân sự của người bán hàng còn do nguyên nhân kinh phí.Vật giá tăng cao và phạm vi hoạt động của người bán hàng cũng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 43/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
không thể nới rộng thêm nữa trong khi truyền hình len lỏ i vào mỗ i gia đình, sức thẩm thấu của nó rất lớn. Người bán hàng càng khốn đốn hơn khi những hiệu buôn mà khách hàng có thể tự chọn (self-service store) ra đời. Người mua không cần đến lời chỉ dẫn của người bán hàng, anh ta có thể t ự liệu l ấy thân. Khi bước vào siêu thị (super-market) người mua h ầu như đã có một số hình ảnh về thương phẩm trong đầu, do quảng cáo bên ngoài (báo chí, truyền thanh, truyền hình, bè bạn, gia đình), nếu cần , anh ta chỉ ngước mắt xem thêm vài bi ển quả ng cáo bên trong tiệm cho biết đang có một cơ hội mua rẻ nào đó. Ít khi anh ta phải hỏi ý kiến ngườ i bán hàng trừ khi không muốn mất quá nhiều thời giờ. Ng ười bán hàng chỉ còn đóng vai trò người giữ gìn trật tự hoặc sắp gọn lại món hàng bị khách bới tung.
Một yếu tố xã hội làm cho ngành quảng cáo phát triển là sự di chuyển của dân
cư từ nông thôn, thị trấn ra các đại đô thị và các vùng phụ cận. Những phương
tiện truyền thông quảng cáo, vì lý do kinh tế, thường tập trung sức mạnh vào
những khu vực đông dân hơn là nơi hẻo lánh. Như thế, dù không có một lực
lượng người bán hùng hậu, các xí nghiệp vẫn có thể đưa thương phẩm đến tay
khách. Thêm một người cư trú là có thêm một khán thính giả, và do đó, kinh
phí quảng cáo cũng nhờ đó mà hạ dần.
Một lý do khác có lợi cho quảng cáo là sự xuất hi ện các loại bao bì càng ngày càng tinh vi đẹp mắt, ví dụ năm 1933 chỉ có 33% bia vỏ chai vô lon thôi, đến 1957 có đến 79% dưới hình th ức ấy. Đã có bao bì thì phải có nhãn hi ệu, và một khi các hình thức bao bì được phát triển (ve chai, lon thiếc, hộp giấy, hộp nhự a…) thì nhãn hiệu cũng sinh sôi nảy nở nhiều thêm, kéo hoạt động quảng cáo đi lên theo.
- TIẾN HÓA CỦA THƯƠNG PHẨM, THỊ TRƯỜNG VÀ HÌNH THỨC CẠNH TRANH
Ngày nay, người tiêu thụ không còn chấp nhận thương phẩm một cách dễ dãi
nữa nên các nhà sản xuất phải thu đi thu lại sản phẩm của mình trước khi đem
bán. Không những nội dung thôi nhưng hình thức bên ngoài của sản phẩm
cũng phải được người sản xuất theo dõi vì ngoài tính cách thẩm mỹ hay trần
thiết, bao bì còn bảo vệ món hàng tránh hư hỏng hay mất mát. Thị trường
cũng không còn như xưa mà chẻ thành nhóm nhỏ (segmented) , dù mỗi thành
phần xã hội, tuổi tác, trai gái, có sức mua và sở thích khác nhau. Trước khi đem
ra thị trường một món hàng, cần phải nghiên cứu điều tra kỹ càng để tránh thất
bại. Tuyên truyền quảng cáo một món hàng mà chỉ có một số người mua nổi
(nữ trang đắt giá, xe cao cấp…) thì không thể dùng những phương tiện truyền
thông đại chúng như truyền thanh, truyền hình mà phải kiếm những cách thức
quảng cáo đặc biệt hơn (tạp chí chuyên môn). Yếu tố thời gian cũng quan
trọng. Gặp lúc Tết nhất thì nên quảng cáo thương phẩm dùng vào việc quà cáp,
mùa lạnh quảng cáo đồ trượt tuyết, mùa hè quảng cáo áo tắm. Những đồ đắt
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 44/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
tiền phải được quảng cáo ở những chương trình đặc biệt và có tính cách định
kỳ, khác với các loại hàng hóa phổ thông có thể được quảng cáo quanh năm.
Sự cạnh tranh cũng đóng vai trò thúc đẩy quảng cáo: muốn giữ được một
phần thị trường cho mình phải biết phân tích sự thất bại hay thành công của đối
thủ, hoặc để tránh giẫm lên vết xe cũ hoặc dễ bắt chước làm theo. Đã có thời
mọi người tranh nhau uống bia “tinh chất” (dry), dùng nước uống “ít nhiệt
lượng” (low calorie) và những chủ đề này được tất cả các hãng giải khát dùng
dể lôi kéo khách hàng.Tính lưu động của thị hiếu cũng là một biến số trong
quảng cáo. Khách hàng chọn một món hàng nào đó chưa chắc vĩnh viễn trung
thành với nó, họ có thể “thay lòng đổi dạ” nếu tìm được món hàng hay nhãn
hiệu vừa ý hơn. Đó là hiện tượng “đổi mác” (brand switching) tức là bỏ nhãn
hiệu này dể theo một nhãn hiệu khác., xảy ra thường xuyên nhất nơi các món
hàng mà tần số sử dụng lớn (kem đánh răng, nước ngọt, bột giặt…chẳng hạn).
Kết quả điều tra của nhóm WR Simmons (do đài NBC nhờ) cho biết chỉ trong
vòng 3 tháng, người tiêu dùng “đổi mác” đến 50%, nhưng nhờ có khách mới
lục tục kéo đến cho nên hiện tượng này coi như được hóa giải.Nếu người làm
quảng cáo không nhìn thấy điều này, nhiều khi có thể ngã lòng vì tưởng thương
điệp mình phóng ra không mang lại hiệu quả.Theo kết quả nhóm Simmons
tường trình, trong vòng 3 tháng đó, nhãn hiệu “giữ khách” giỏi nhất chỉ để chạy
thoát 36% số khách, trong khi nhãn hiệu yếu kém đã để vuột mất đến 89%. Do
đó, sự quá tín (over-confidence) nơi các nhà doanh thương cho rằng nhãn hiệu
mình đã có đủ tiếng tăm mà không chịu chăm chút bảo vệ nó là một nguyên
nhân của thất bại trong việc buôn bán.
Nói tóm lại, quảng cáo là mộ t trong những hoạt động then ch ốt của người kinh doanh, ngoài việc thiế t kế và sản xuất thươ ng phẩ m hay dịch vụ, điề u tra thị trường, dự đoán nhu cầu khách hàng, tổ chức đường dây phân phối, ấ n định giá cả và trưng bày sản phẩm.Riêng trường hợp Nhật Bản chẳng hạn, họ coi chi phí quảng cáo (Kokokuhi) nh ư một trong ba chi phí quan trọng nhất (3 K) cùng với chi phí tiếp đãi (Kosaihi) và chi phí chuyên chở đi lại (Kotsuhi). Chi phí quảng cáo là một “thước đo” khá chính xác sức khỏe kinh tế vậy.
III. VAI TRÒ CỦA NGÂN KHOẢN DỰ CHI CHO QUẢNG CÁO
Đối với người cậy quảng cáo, thi ết lập một ngân khoản dùng vào vi ệc quảng cáo, nhất thiết phải nghĩ đến vừa hiện tại, quá khứ lẫn tương lai. Có lối thiết định ngân kho ản tùy ý (arbitrary) dựa trên trự c giác hay tùy theo tình hình tài chính của chủ quảng cáo. Lại có phương thức ấ n định ngân khoản một cách máy móc (mechanic) theo độ bách phân (ph ần tră m) doanh số hoặc lợi nhuận đã thu được trong quá khứ hay dự trù sẽ thu được từ ho ạt động thươ ng mạ i hay của mỗi cổ phần, mỗ i đơn vị thành phẩm. Ph ương thức này được tu chỉnh theo mộ t vài biến s ố khác ví như nhiệt tình của cá nhân nhà doanh thương khi đánh giá hoạt động quảng cáo, tình hình củ a môi trường kinh doanh (loại xí nghiệp, loại thương phẩm, khu vực và qui mô kinh doanh) cũng như số chi tiêu quảng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 45/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
cáo c ủa một đối thủ cạnh tranh.Vi ệc tính toán món tiền để chi dùng vào hoạt động quảng cáo thường được đưa vào những phương pháp như sau:
- Phương pháp chi phí thiết lập theo tỷ lệ doanh thu (percent-of-sales method)
- Phương pháp chi phí đủ đối chọi với kẻ cạnh tranh (competitive method)
- Phương pháp chi phí căn cứ theo thành quả của mục tiêu ( task method)
- Phương pháp chi phí dựa trên khả năng trang trải (affordable approach)
Những biến số để thiết lập ngân khoản chi phí cho quảng cáo vốn đa dạng. Thí
dụ lương bổng thường thường tăng lên theo một nhịp với doanh số nên thiết
lập ngân khoản quảng cáo tương lai theo nhịp tăng giảm của tiền lương trả cho
nhân viên trong khoảng 10 năm trở lại là một phương thức hay được sử dụng.
Lợi nhuận thu được trong năm cũng là một cơ sở để ấn định món tiền phải chi
dụng vào quảng cáo cho năm tới. Tuy vậy cách tính toán nầy chưa hẳn đã thỏa
đáng vì nhiều khi nhịp phát triển của món hàng hay xí nghiệp đòi hỏi phải tăng
chi để chiếm thêm thị phần (market share). Điểm này rất tế nhị trong mối tương
quan giữa người quản lý xí nghiệp và cổ đông (shareholder). Cổ đông thường
chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt là phần chia lãi của cổ phần (dividend).Ngân
khoản dự chi cũng có thể tính theo tỉ suất của kinh phí quảng cáo đối với tổng
kinh phí bán hàng (total selling cost).Cách tính này có lợi điểm là sau một
thời gian nhìn độ lên xuống của kinh phí quảng cáo trong toàn bộ kinh phí
dùng vào bán hàng của xí nghiệp, có thể đi đến chỗ tiết giảm hợp lý chi phí
quảng cáo. Nhà phân tích thị trường A.J. Gallager nhận định như sau: “Việc
tính toán dự chi cho quảng cáo bằng phần trăm số doanh thu hoặc lợi nhuận
hoặc tổng kinh phí bán hàng chứng tỏ quảng cáo rất cần thiết cho việc bán
hàng và một khi chi phí về quảng cáo lên xuống, việc bán hàng sẽ phải chịu
ngay ảnh hưởng trực tiếp. Nhà doanh thương cần tham khảo cách thức và
thành quả của các hãng khác để chọn lựa hình thức soạn thảo dự chi quảng
cáo cho thích hợp với điều kiện của mình.”
Trong loại thiết định ngân khoản một cách cơ giới còn có phương pháp thiết định ngân kho ản qu ảng cáo theo ước tính (estimation) d ựa trên con số chi nhánh, số cử a hàng (outlets) hay những chỉ tiêu (indices) kinh tế dự phòng của ngành nghề, th ị trường, mặt hàng, thời điểm trong “cu ộc đời” (life cycle) của một món hàng (lúc hàng mới ra lò phải tiêu nhiề u vào quảng cáo, sau đó chi tiêu cầ m chừng trừ khi phóng nó lên quĩ đạo trở lại) cũng như tính sáng tạo của quảng cáo.
Haimô hình khoa học để thiế t định ngân khoản quảng cáo được gọi là phương pháp Jean-Jacques Lambin và phương pháp Armand Morgensztern (xem Th. Fabre, 1992). Phương pháp Lambin hay phương pháp phân tích đa biến số (méthodes d?analyse multivariée (P)) nhằm cô lập hiệ u quả một biế n số để xem nó tác động thế nào đến bình quân của tổng số những y ếu tố liên h ệ đến ngân sách. Ông cũng b ổ sung vào đây những biến số như sự quên lãng (perdition de souvenir (P)) của người nhắn tin và vốn uy tín (capital notoriété (P)) của nhãn
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 46/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hiệu để đánh giá những hiệu quả dài hạn của quảng cáo.Theo ông, quảng cáo là
đầu tư và sự duy trì uy tín của nhãn hiệu là một sự gây vốn. Mô hình của
Lambin cho phép tính toán ngân sách theo hiệu quả tức khắc lẫn hiệu quả dài
hạn của nó. Phương pháp A. Morgensztern cũng cho phép tính toán dự chi
quảng cáo dựa trên những mục tiêu như độ duy trì trong trí nhớ khách hàng uy
tín của hãng hay mặt hàng và mức độ thâm nhập của “chiến dịch” quảng cáo.
Ông đã tính ra được tương quan giữa độ ghi nhớ (mémorisation(P)) Beta với số
lần tiếp xúc, sự lưu ý, thời gian quảng cáo cũng như cường độ của áp lực quảng
cáo ( encombrement publicitaire (P)).
Bên cạnh hai mô hình khoa học này, còn có lối thiết định ngân sách dự a theo kết quả thu lượm từ nh ững cuộc điều tra áp lực quảng cáo trên từng địa vực (Méthode des Tests de Vente) đối với mỗi đầu người ở vùng đó. Nếu áp lực đã quá cao nghĩa là số lượ ng quảng cáo quá nhiều, sự quảng cáo có khi trở thành vô hiệu vì đã đi đến độ bão hòa.
Tình hình thị trường biến đổi t ừng ngày một vì có quá nhiề u biến số, nhà doanh thương cần phải tu chỉnh luôn luôn ngân khoản quảng cáo. Xí nghiệp không thể dựa trên một công thức cố định để tính toán tiền quảng cáo. Người trách nhiệm quảng cáo phải biết sử dụng trực giác, biết suy diễn và có tầm nhìn xa… vì cho đế n nay, việ c thi ết lập một ngân sách quảng cáo vẫn chưa nằm trong lĩnh vự c của khoa học chính xác. Có đi ều là khuynh hướng chung hiệ n tại đã không coi tiền bỏ vào quả ng cáo như một kinh phí của tài khoản thường niên (current expense) mà là món tiền đầu tư để xây dự ng tiếng tăm, nhãn hiệu cho mặt hàng (brand equity) và như thế, nó là một kinh phí có tính cách sách lược (policy cost).
IV. KIỂM THẢO VÀ SO SÁNH MÔI THỂ QUẢNG CÁO
Quá trình đi đến quyế t định môi thể dùng để quảng cáo gồm bốn giai đoạn: kiểm thảo các môi th ể hiện có, tuyển chọn môi thể có hiệu suất cao phù hợp vớ i th ương điệp củ a mình, quyết định ngân sách theo giá đơn vị môi thể (media unit) và cuối cùng là chế tác thương điệp.
Một khi đã ấn định số tiền dự chi cho quảng cáo, người chủ quảng cáo bước đến giai
đoạn đánh giá và so sánh các môi thể (media comparisons) để tiến hành quảng cáo
qua một môi thể duy nhất (quảngcáo đơn môi) hay song song với nhiều môi thể
(quảng cáo đa môi). Nếu phải chọn cách thứ hai, thì phải chia năm xẻ bảy món tiền
dự chi theo hình thức nào. Đây là một vấn đề nát óc ví dụ khi thị trường ngày càng
mở rộng, môi thể cũng mọc nhanh chi chít, nhưng dự chi cho quảng cáo cũng như
đơn vị chi phí quảng cáo tính trên một số đầu người không thể tiến theo cùng một
nhịp được. Muốn tăng thêm độc giả hay khán thính giả, các hãng quảng cáo buộc
lòng phải in thêm số báo và đầu tư để nới rộng mạng lưới truyền thanh truyền hình,
như thế họ bắt buộc tăng giá về phía người cậy đăng (dù điều này không mâu thuẫn
với sự kiện khi số máy truyền hình tăng thêm trong một khu vực đã được phủ sóng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 47/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
(covered) thì chi phí quảng cáo tính theo đầu người sẽ tự động giảm đi).
Trước khi đi đến chỗ tìm hiểu quyết định phương án môi thể (media-planning) ta ph ải định nghĩa một số khái ni ệm cần thiết. Trước hết là khái niệm khán thính giả có ích nghĩa là s ố lần ti ếp xúc của mộ t phân tiết thị trường (market segment) đối với một môi thể g ọi là môi th ể nhắm đích (target media) mà ta ch ọn lự a để thông tin; và nhờ đó người thiết lập kế hoạch môi thể có thể đánh giá được hiệu quả của môi thể đó theo tiêu chuẩn họ đã đặc trước.
Như ta thấy, khán thính giả có ích là diện tích của phần tiếp giáp giữa khung chữ
nhật tượng trưng cho tổng số khán thính giả và ô quả trám biểu diễn vùng phủ sóng
của môi thể nhắm đích . Vì thế, khán thính suất là tỷ lệ giữa tổng số những lần tiếp
xúc của khán thính giả với môi thể trên toàn thể dân số của đích nhắm, tính theo
phần trăm (%). Tỷ suất này nhân lên một trăm lần, xin tạm gọi là Tổng Số Bình
Điểm Môi Thể (Gross Rating Point). Nếu một quảng cáo truyền hình đạt được 15%
khán thính suất trên đích nhắm gọi là “các bà nội trợ dưới 50 tuổi”( ví dụ như khi
thương điệp đã lọt vào mắt 1,520,000 lần trên 10,150,000 tổng dân số của đích
nhắm), ta có thể xem như quảng cáo này đã đạt điểm 15GRP trên những người đó.
Một môi thể thực hiện được 20GRP trên “các bà nội trợ dưới 50 tuổi” được xem như
có hiệu năng (puissance) (P) lớn hơn một môi thể chỉ thực hiện có 10GRP. Hiệu
năng nay còn tùy thuộc vào biến số ” khâu thời giờ ” vì khâu hoàng kim (prime time,
golden time) từ 19h đến 22 h xưa nay vẫn được coi là hiệu quả nhất nên đắt tiền
nhất.
Về mặt tiết giảm kinh phí (économie) (P), n ếu đem chi phí môi thể để so sánh với số GRP thực hiện đượ c, ta có thể tính ra đơn vị CPP (Cost Per Point) tứ c là ti ền bỏ ra để đư a được thông tin đến 1% quần chúng đích nhắm.Chỉ tiêu này giúp ta so sánh được hiệ u n ăng của hai môi thể nhắm đ ích hay hai màn ảnh khác nhau.Ví dụ ta có màn ảnh số 1 rẻ tiền hơn màn ả nh số 2. Tỉ dụ giá một đi ểm (CPP) của nó là 12500 USD tức là ta cần bỏ ra 12,500 USD để đạ t tới 1% đích nhắm. Màn ảnh số 2 đắt tiền hơ n nhưng l ại có hiệu năng l ớn hơn (ví dụ vào giờ hoàng kim ngày chủ nhật). Xem đồ biểu sau, ta sẽ thấy nhiều khi phải dám bỏ nhiều tiền để đạt hiệu năng quảng cáo
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 48/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
cao (với giá đơn vị chưa tới gấp đôi, màn ảnh 2 đã thực hiện 4 lần hơn hiệu năng thẩm thấu).
Đồ biểu 3.1 : So sánh hiện năng hai màn ảnh quảng cáo (theo Th.Fabre)
Môi thể sử dụng | Giá đơn vị 30 | GRP(đích : nội | CPP (USD) | |||||
giây (USD) | trợ dưới 50 tuổi) | |||||||
Màn ảnh số 1 | 50,000 | 4 | 12,500 | |||||
Màn ảnh số 2 | 320,000 | 16 | 20,000 | |||||
Trong đồ biểu trên, phải xem phương tiện trợ lực (support) là một đơn vị nhỏ hơn
môi thể. Nó có thể chỉ là những màn ảnh vào một khâu giờ khác nhau trên đài truyền
hình hay một nhật báo ra ngày thường hoặc ra ngày lễ…Phương tiện lý tưởng để
quảng cáo trong đồ biểu là (A) vì nó vừa có hiệu năng vừa tiết giảm được chi phí.(D)
tránh được thì càng tốt vì vừa đắt vừa không mạnh. (B) có thể dùng để thực hiện mục
đích phủ sóng, (C) như một phương tiện phụ cho một chiến dịch chính để cuối cùng
kinh phí bình quân của cả hai sẽ nhẹ bớt đi.
Trên thực tế, người ta còn thường sử dụng chỉ tiêu CPM (Cost Per Mil) để tính chi phí quảng cáo / khán thính giả (cost per unit of audience). Phí tổn này tính theo từng cụm 1000 lần tiếp xúc một theo công thức sau:
CPM = (giá đơn vị môi thể/ khán thính giả có ích)* 1000.
CPP (giá củ a mỗi GRP) hay CPM chỉ là hai cách diễn tả của một khái niệm. Khác nhau chăng là tùy thuộc vào tổng dân số của đích nhắm.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 49/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ta có thể chuyển từ một khái niệm qua khái niệm khác bằng cách dùng công thức sau:
CPM = CPP (100,000 / Khuôn khổ của đích nhắm)
Nếu dùng thí dụ của Th.Fabre, một màn ảnh truyền hình có mộ t CPP là 20,000USD đối với đích nhắm là các bà nội trợ dưới 50 tuổi và tổng dân số của đích nhắm là 10,150,000 người thì CPM của màn ảnh là 197USD. Sở dĩ ng ười ta phân biệ t CPP với CPM chỉ vì CPP cho phép ta so sánh hi ệu suất của nh ững quảng cáo qua hai môi thể nhắm đ ích khác nhau đối với cùng một dân số. Trong khi đ ó, CPM, ngượ c lại, dùng trong nghiên cứu đối chiế u có tính cách quốc tế bởi vì nó cho phép tính được hiệu suất của những quảng cáo qua một môi thể nhắm đích duy nhất đối với hai dân số (population) khác nhau.
Chúng ta cũ ng cần hiể u thêm về độ mậ t thiết (hay tính tương cận) giữa phương tiện trợ lực (l’affinité d’un support) (P) và đích nhắm. Độ mật thiết ( taux d’affinité)
- tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số khán thính giả có ích và toàn thể khán thính giả của mỗi môi thể dùng để nhắm đích. Chỉ tiêu này ít được dùng hơn những chỉ tiêu nói trên (CPP, CPM…) nhưng không phải không quan trọng vì nó ấn định được sức mạnh của môi thể đối với toàn thể khán thính giả của nó. Từ đó, ta có thể suy ra một thước đo nữa, được dùng phổ biến hơn. Đó là chỉ số mật thiết (indice d’affinité). Nếu đặt công thức :
Độ mật thiết = khán thính giả có ích / toàn bộ khán thính giả
Ta có thể định nghĩa rằng:
Chỉ số mật thiết = tổng số khán thính giả/tổng dân số đích nhắm*100
Khi ch ỉ số t ương c ận là 100, ta có thể hiểu là môi thể có thể phủ sóng đến toàn bộ dân số đích nhắm. Nếu chỉ số ấy l ớn h ơn 100,môi thể đã phủ sóng thừ a ra cả dân số ngoài đích nhắm và như thế, tổng dân số có một tươ ng quan mật thiết đặc biệt với môi thể. Nếu chỉ số dưới 100, môi thể phủ sóng hơi yếu so với ảnh hưởng thực sự của nó trong tổng dân số.
Một khái niệm giúp ta có thể lập phương án môi thể dễ dàng hơn là khái niệm về sự trùng lắp khán thính gi ả(duplication d?audience (P)), hiện tượng x ảy ra khi một nhóm người vừa là khán thính giả của hai môi thể cùng mộ t lúc.Mỗi độ c giả của tờ báo A có thể đọc thêm tờ B (duplication), mộ t khán giả đài truyền hình X có thể xem cả chương trình đài Y lẫn đài Z (triplication). Sự trùng lắp ấy có thể nhìn thấy qua đồ biểu sau đây:
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 50/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Như thế trong trường hợp khán thính giả của X là 2,000,000 ng ười, c ủa Y là 700,000 ng ười và khán giả chung của cả hai là 400,000 người thì chỉ số trùng l ắp của X và Y sẽ là 400,000/ (2700,000-400,000) hay 17%.Dĩ nhiên chỉ số trùng lắp độc lập với chỉ tiêu hiệu năng của môi thể.
Khi thiết kế một kế ho ạch môi thể, ta phải tính toán về độ tiếp xúc của dân số trong đích nhắm đối với các môi thể trong kế hoạch bằng tổng số GRP, bằng độ phủ sóng (couverture)(P) bằng độ lập đi lập lạ i (répétition)(P), độ ti ết giảm kinh phí, độ mật thiế t để có một khái niệm khá chính xác về độ lộ xu ất của thươ ng đ iệp. Tuy nhiên, t ừ đấy mà v ội kết luậ n về hiệu quả toàn thể của quảng cáo là một điều nhầm lẫn bởi vì ngoài độ tiếp xúc, còn phải xem xét cả độ thấu hi ểu, độ ghi nhớ và độ tán thưởng. Nhưng điều này vượt qua giới hạn của khái niệm tiếp xúc và rơi vào lãnh vực của các viện điều tra dư luận v ới những mô hình toán học cũng như những trắc nghiệm tâm lý hơn là của nhà thảo kế hoạch môi thể.
Thiế t lập kế hoạ ch môi thể phải b ước qua giai đoạn thiết yếu là hội nghị để thiết định chiến lượ c môi thể và trả lời thỏa đ áng về ngân khoản, thời điểm, thể lo ại và hình thứ c môi th ể. Một khi đã chọn môi thể rồ i, phải theo dõi thường xuyên, tối ưu hóa trên phương diện lượng lẫn chất trong lúc thực hành và nhất là kiểm soát kế hoạch trước khi thực thi.
Nói về nh ững cơ hội ti ếp xúc, mỗ i môi thể có một lối trắc lượng riêng. Ở Mỹ , về phía nhật báo hoặc tạp chí, người ta có thể vin vào con số phát hành của Văn Phòng Kiểm Soát Lưu Hành (ABC hay The Audit Bureau of Circulation) để biết bao nhiêu bản in đã gử i đi. Tuy nhiên đi đến kế t luận có bao nhiêu người đọc được một số báo nhất định và bao nhiêu người để mắt đến khuôn quảng cáo nào đó trên số báo kể trên là mộ t việc không dễ dàng tí nào. Cho dầ u các cơ quan nghiên cứu của 2 tạp chí Life, Look và Cơ Sở Nghiên Cứu Quảng Cáo( Advertising Research Foundation)…đã thử nghiên cứu về tập quán đọc báo (readership studies) để rút được nhiều kết luận thú vị bằng phương pháp suy định từ các mẫu thực nghiệm (sampling methods) nhưng họ vẫn chưa đạt đư ợc thành quả như ý.
Cả hiệp hội truyền thanh truyền hình và quảng cáo ở Mỹ (The Radio and Television Manufacturers Association, The National Association of Radio and Broadcasters), lẫn giới chủ nhân quảng cáo cỡ lớn, hãng chuyên môn quảng cáo cũng như các đài,
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 51/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
các mạng lưới truy ền thanh truyền hình cũng đã bỏ nhiều công sức trong việc kiểm tra này, đến độ chi li cho mỗi loại thương điệp, từng giai tầng khán thính giả đặ c biệt. Tấ t cả những việc làm đó nhằm mục đích lấ y kinh nghiệm để trong tương lai hợp tác một cách h ữu hi ệu vớ i nhau hơn. Nhưng làm sao có thể so sánh hiệu năng của nh ững môi thể khác nhau (thương điệp trên mặt báo, trên làn sóng truyền thanh, truy ền hình) vào những giờ khắc khác nhau với những thương điệp dành cho những loại thương phẩm khác nhau !
Agnew và O?Brien có nói đến cách thức đo hiệu năng môi thể (Media Testing)
bằng cách khoanh các đô thị ra thành 4 vùng, mỗ i vùng dùng một môi thể để quảng cáo (ví d ụ vùng 1 dùng truyền hình, vùng 2 dùng truyền thanh, vùng 3 dùng bảng hiệu hay bích chương, vùng 4 dùng nhật báo) cho 4 loạ i sản ph ẩm riêng biệt. Trước và sau khi mở chiế n dịch quảng cáo, người nghiên cứu phải đo doanh số mỗi n ơi vào mỗi thời kỳ (trước và sau) và tính toán chi phí quảng cáo đã bỏ ra để xem hiệu năng của mỗi môi thể đến đâu.. Tuy đo đạc như vậy cũng chư a rốt ráo vì ngoài quảng cáo, còn có bao nhiêu (hàng trăm, hàng nghìn) động cơ khác ảnh hưởng tới quyết định mua sản phẩm và cả số doanh thu.
Người đại diện cho môi thể nào cũng muốn thuyết phục chủ nhân quảng cáo rằng
môi thể mình là hữu hiệu hơn cả những các chủ nhân quảng cáo đều nhìn nhận hiệu
năng to lớn của quảng cáo truyền hình. Điển hình là ví dụ về cái giường xếp của
Bernard Castro. Năm 1932, Castro bắt đầu bán loại trường kỷ (sofa) có thể mở tung
ra thành giường ngủ. Cho đến năm 1948, mỗi tuần ông ta chỉ bán đến 100 chiếc là
cùng. Một hôm, cô con gái 5 tuổi của ông một mình mở giường ra để ngủ, Castro
mới nảy ra ý là thu phim cảnh đó và đưa lên truyền hình quảng cáo với lời rao
“Giường mở dễ dàng, bé con 5 tuổi cũng làm được”. Kết quả là sau một tuần quảng
cáo lên đài, số doanh thu của “Castro Convertible” (giường xếp mở của Castro) tăng
vùn vụt, đến năm 1958 ông ta đã có 11 công trường lắp chế từ Florida đến New York
và 20 phòng trưng bày hàng hóa (show room) trên toàn quốc. Sau này ông còn phát
huy quảng cáo cả trên báo chí và truyền thanh, nhưng không đâu đem lại kết quả tốt
bằng truyền hình.
Hai thí dụ khác về hiệu năng của truyề n hình là sự tích anh em nhà Polk và hãng bút máy Shaeffer. Chủ nhân một tiệm bán máy móc nhỏ sống èo uột, bị động viên rồi giải ngũ năm 1949, anh em Polk đã bảo trợ một chương trình truyền hình mỗi tu ần một đêm tên là Nite Owl Theatre (Kị ch Trường Con Cú Aên Đêm). Ngoài ra họ còn xông xáo bỏ tiền ra quảng cáo có khi từ 18 đến 20 tiếng đồng hồ mỗi tu ần. Anh em Polk đã đưa doanh số của hãng mình lên bằng tổng số doanh thu của c ả State Street, một con đườ ng thương mại đông đúc của Chicago thời b ấy giờ . Riêng hãng Shaeffer đang độ suy thoái, nhờ quảng cáo truy ền hình đã phá kỷ lục v ề doanh thu, nắm lại địa vị nhà chế tạo bút máy số một của n ước Mỹ. Truyền hình có hiệu năng đặ c bi ệt đến một số mặ t hàng như hãng ẩm thực hoặc xe hơi, điều đó cắt nghĩa tại sao các chủ quảng cáo các mặt hàng ấy thường tận dụng khả năng của truyền hình và tiêu vào đấy những ngân khoản khổng lồ.
Ngoài việc làm tăng doanh thu, quảng cáo truyền hình còn giúp cho chủ quảng cáo tiếp xúc, đối thoại với người mua. Hãng sản xuất đồ điện số một của Mỹ General
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 52/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Electrics khi bảo trợ chươ ng trình kịch trường General Electrics Theater đ ã cho xen vào đó những bảng tường trình Progress Report nói về mọi ho ạt động của hãng từ cách huấn luyện nhân viên, quang cảnh đại hội đồng cổ đông, phương thức đề phòng tai nạ n lao động, hệ thống chế tạo đồ phụ tùng cho dến tổ chức phúc lợi xã hội của công nhân (đau ốm, hưu trí…). Qua hôm sau, với kết quả phúc trình b ởi Gallup & Robinson là hãng điều tra dư luận làm việc cho họ, General Electrics đã thấy rằng khán thính giả đã rất chú ý đến những ch ương trình như th ế. Hãng US Steel còn chơi đòn lạ lùng hơn. Nhi ều khi họ quảng cáo nhữ ng món hàng không phải của họ làm ra bở i vì họ chủ trương làm quảng cáo cho toàn thể kỷ nghệ ch ế thép. Hễ có người mua đồ thép dù là của US Steel hay không, họ cũng mãn nguyện rồi. Họ muốn đóng vai trò đầu tàu và “kẻ cả ” để mời mọc mua sản phẩm thép, điều mà họ sẽ gián tiếp được hưởng lợi. Nói rộng ra, người chủ quảng cáo nhiều khi còn muốn nhúng tay chỉ đạo phần trình diễn (show business) của quảng cáo, một lãnh vực không phải chuyên môn của họ, chỉ vì họ muốn tiếp cận người mua một cách toàn thể và muốn truyền đạt một thương điệp cho thật xứng ý mình.
- LÝ DO KHIẾN CHỦ QUẢNG CÁO KHÔNG MUỐN QUẢNG CÁO NỮA
Lý do số một để chủ quảng cáo phải bỏ rơ i quảng cáo truy ền hình là lúc họ khổ tâm vì vấn đề chi phí. Một chủ quảng cáo có khả năng chi bực trung không thể nào với tới quảng cáo truyền hình. Hai là họ không được khoanh thời gian vừa
- để gửi thương điệp theo nhịp điệu cần thiết và cho loại hình khán thính giả đích nhắm của họ. Dĩ nhiên, có một số sản phẩm mà các môi thể khác xem ra vừa hữu hiệu, vừa rẻ hơn.
Về thời gian, hãng truyền hình không thể tăng thêm giờ trong khi nhật báo có thể tăng số báo. Ch ủ quảng cáo muốn có mộ t khoảng thờ i gian vừa ý bắ t buộc phải chờ đợi người khác buông nó ra. Ngoài ra, việc khó thực hiện việc kiểm tra hiệu năng của th ương điệp cũng là cái cớ làm nản chí ng ười cậy quảng cáo tuy khó khăn này là khó khăn chung, không chỉ riêng ở môi thể truyền hình.
Cuối cùng, truyền hình tuy là vạn n ăng nh ưng một số môi thể khác cũng có khả năng đặ c biệt của chúng. Điều này, chúng ta sẽ quan sát kỹ càng hơn trong một chương sau.
VI. NHỮNG AI LÀ CHỦ QUẢNG CÁO
Mỗ i năm, số tiền đầu tư vào quảng cáo lên đến 200 tỷ đô la Mỹ riêng đối với một nước Mỹ, còn nói đến toàn thế giới thì phải lên đến 425 tỷ đô la (O’Guinn dẫn Zenith Media, 1998). Mỗi năm số ti ền này tă ng tên từ 7% đến 8% và các n ước Mỹ, Anh, châu Á và châu Mỹ La Tinh dẫn đầu trào lư u này. Chúng ta hãy thử nhìn con số liên quan đến 20 xí nghiệp tiên tiến nhiều nhất vào quảng cáo trong hai năm 1996,1997 ở Mỹ (theo Advertising Age, tháng 9/1998):
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 53/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Đồ biểu 3.5: Hai mươi xí nghiệp dẫn đầu về chi tiêu vào quảng cáo ở Mỹ
Xí Nghiệp/ Ngành hoạt động
General Motors / Ô-tô
Proctor &Gamble / Chế phẩm vệ sinh
Chi tiêu vào quảng cáo (triệu USD) 1997
3087,4
2743,2
Chi tiêu vào quảng cáo (triệu USD) 1996
2376,4
2581,2
Độ biến đổi (%)
29,9
6,3
Philip Morris / Thuốc lá
Chrysler / Ô-tô
Ford / Ô tô
Sears, Roebuck&Co / Phân phối
2137,8
1532,4
1282,8
1262,0
2250,2
1422,6
1197,1
1216,5
-5,0
7,7
7,1
3,7
Walt Disney Co / Giải trí
PepsiCo / Ẩm thực
Diageo
Mc Donald Corp / Ẩm thực
Time Warner ?Giải trí
IBM / Máy vi tính
1249,7
1244,7
1206,6
1041,7
1013,2
924,9
1263,5
1235,2
1037,7
1074,6
1037,7
792,3
-1,1
0,8
16,3
-3,1
-2,4
16,7
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 54/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Johnson&Johnson /
Chế phẩm vệ sinh
Unilever / Hóa học
JC Penney
Bristol-Meyers Squibb
Toyota Corp / Ô tô
Tricon Global
Restaurant / Ẩm thực
AT&T / Thông tin
Sony / Sản phẩm điện tử
920,2
908,9
906,2
885,2
851,9
851,2
781,1
777,5
935,0
953,8
815,5
742,0
782,8
879,9
1070,1
661,0
-1,6
-4,7
11,1
19,3
8,82
-3,2
-27,7
17,6
Điều đ áng chú ý là tiền tiêu vào qu ảng cáo dù nhiều không có nghĩa là hãng đó dồn hết s ức vào quảng cáo. General Motors có tiêu 3 tỷ đô la cũng chỉ là 2% của doanh số hãng này thực hiện. Con số 2% này rất khiêm nhường khi đặt bên cạnh 1,2 tỷ của Sears vì nó là 3% của doanh số họ đạt được. Hãng chế tạo xe hơi như GM không thể nào (và không cần thiết) chi vào quả ng cáo nhiều bằng xí nghi ệp chuyên về phân phối (reseller) như Sears được. Ngoài xí nghiệp, chính phủ và các đoàn thể xã hội cũng chi tiêu vào quảng cáo truyền hình. Ở Hoa Kỳ, trong năm 1997, chính ph ủ đã tiêu trên 620 triệu đô la vào việc quảng cáo công cộng . Riêng quảng cáo tuyển mộ tân binh của quân đội cũ ng mất 55 triệu đô la khi họ phải mua khâu giờ của các trận đấu bóng rổ (vốn được thanh niên ưa chuộng) để quảng cáo.
(Chúng ta tạm b ỏ qua không nói đến các chủ quảng cáo của quảng cáo tuyển c ử, Quảng cáo tuyể n c ử là mộ t định chế trong xã hội Âu Mỹ. Muố n trở thành tổng thố ng Hoa Kỳ phải có đủ tiền để chi vào việc quảng cáo truyền hình. Ứng cử viên A. Stevenson, đối thủ của D.
Eisenhower đã thất cử vì vô tình phô đế giày rách của mình trong một chương trình truyền hình. Ứng cử viên độc lập, đại phú hào Perrot tiêu một phần sản nghiệp c ủa ông vào quảng cáo. Khi tổng thống F.Mitterrand đắc cử ở Pháp, người ta cho rằng thắng lợi của ông tùy thuộc một phần
- tài năng nhà quảng cáo Jacques Séguéla.
Theo điều tra của Tarif Secodif (1991) dẫn bởi Thierry Fabre, 15 ngành nghề dẫn đầu ở Pháp đã chi tiêu về quảng cáo trong năm 1990 như sau:
Đồ biểu 3.6: Chi phí quảng cáo theo ngành nghề ở Pháp (1990)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 55/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ngành nghề
Thực phẩm
Ấn loát, truyền thông
Kỹ nghệ giao thông
Văn hóa, giải trí
Phân phối hàng
Dịch vụ
Mỹ phẩm
Trang trí nhà cửa
Thức uống
May mặc
Du lịch, giao thiệp Điện toán, văn phòng Vệ sinh, tu sửa Quảng cáo tài vụ Bất động sản
Tổ ng số quảng cáo của thị trường
Đầu tư quảng cáo (triệu FF)
6142
5446
5436
5219
4145
4114
3795
3633
2549
1915
1883
1612
1555
1457
1304
55235
Tỷ lệ đối với tổng số
11,11
9,85
9,84
9,45
7,50
7,49
7,25
6,57
4,61
3,46
3,41
2,91
2,81
2,63
2,36
100
Tiếp đến, chúng ta hãy thử xem những hàng nào và loại hoạt động thương nghiệp nào chi tiền quảng cáo nhiều nhất ở Nhật ( theo Niên giám hãng quảng cáo Dentsu năm 1999).
Đồ biểu 3.7 : Xếp hàng tiền chi tiêu quảng cáo của xí nghiệp Nhật năm 1996
Xếp hạng
1
Xí nghiệp
Toyota Motors
Khu vực hoạt động
Ô-tô
Chi tiêu quảng | Tỉ lệ với số | |
cáo (triệu Yên) | doanh thu | |
83.994 | 0,92 | |
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 56/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Nissan Motors | Ô-tô | |
Honda | Ô-tô | |
Kao Soap | Vệ sinh | |
Mitsubishi | Ô tô | |
Motors | ||
Matsushita | Thiết bị | |
Electrics | ||
Suntory | Ẩm thực | |
Daiei | Siêu thị | |
NTT | Thông tin | |
NEC | Thiết bị | |
Benesse Corp. | Dịch vụ | |
Kirin Breweries | Ẩm thực | |
Takashimaya | Bách hóa | |
Nissen | Bách hóa | |
Asahi Breweries | Ẩm thực | |
59.350
50.048
49.921
47.023
46.069
39.458
39.342
37.179
34.611
33.710
33.288
32.692
31.859
29.726
1,61
1,76
7,17
1,82
0,96
5,33
1,57
0,58
0,86
17,89
2,50
2,99
19,60
3,19
Chúng ta nhận thấy ở đây là những hãng có tên tuổi quốc tế như Hitachi (chỉ đứng hàng 16), Sony (hạng 19), Sharp (hạng 21), Toshiba (hạng 25) hay Yamaha (h ạng 83) không có tên trong bảng xếp hạng nói trên. Cũng như trong trường hợp General Motors ở Mỹ, tuy Toyota, Nissan, Honda, ba hãng chế tạo ô -tô được xếp hàng đầu trong bảng nhưng chỉ chi tiêu có 2% doanh thu vào việc quảng cáo trong khi những xí nghiệp dịch vụ (Benesse, Nissen, Mutow, Aderans) lại tiêu gần 20% doanh thu vào việc này.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 57/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nhìn chung thống kê c ủa ba nước, dù không dựa trên những tiêu chuẩn đồng nh ất, đã cho ta thấy điểm chung của chúng là chi tiêu về quảng cáo trong th ực phẩm, giao thông, vệ sinh, thông tin, phân phối (bách hóa hay siêu thị) là những ngành nghề chi tiêu nhiều nhất về quảng cáo.
Chúng ta cần để ý một điểm nữa là s ố tiền chi phí cho các mụ c quảng cáo còn biến đổi tùy theo tư trào kinh tế. Lấy ví dụ Nhật Bản : trong năm 1962, ngành dệt với Teijin và Toray bỏ tiền vào quảng cáo nhiều nhất. Giữa những n ăm 1961-1976, khi ngành sản xuất điện cụ gia dụng nh ư Matsushita Denki, Hitachi, Toshiba, Mitsubishi, Sanyo bướ c vào thờ i hoàng kim của nó thì Matsushita đã đứng đầu b ảng trong những năm 1961, 1971 và 1976. Đến khi kỷ nghệ chế tạo ô-tô trưởng thành giữa thập niên 1970 với tên tuổi như Nissan, Mazda và Toyota, số tiền chi vào quảng cáo của giới này tăng giá. Cùng lúc, cửa hàng phân phối Daiei cũng là xí nghiệp đáng kể trong chi tiêu quảng cáo, điều này được xem như một biểu tượng của thời đại bấy giờ.
Đế n khi Matsushita chồn chân một chút (hạng 5 năm 1981), người ta thấy hãng dụng cụ vệ sinh và mỹ phẩm Kao Soap leo thang. Năm 1961, nó mới gi ữ một địa vị khiêm tốn (hạng 16) nay đã tiến lên hàng dầu. Sau l ưng nó là Shiseido (vệ sinh, mỹ phẩ m), Suntory (rượu), Lion (vệ sinh) cũng tiến nhanh không kém, biểu lộ sự tây phương hóa của đời sống Nhật Bản.
Dĩ nhiên, tiền tiêu vào quảng cáo nói chung không có nghĩa là tiền tiêu vào quả ng cáo truyền hình. Hãy tham khảo đồ biểu sau đây để có một khái niệm về vai trò của quảng cáo truyền hình trong chi phí quảng cáo nói chung:
Đồ biểu 3.8: Chi tiết việc sử dụng chi phí quảng cáo ở Nhật năm 1997 (%)
Phương tiện truyền thông đại chúng
Các hình thức khuyến mãi
Phương tiện truyền hình mới = Neotele)
Nhật báo (21,1%)
Tạp chí (7,3%)
Truyền thanh (3,8%)
Triển lãm và màn ảnh (6,1%)
Niên giám điện thoại (3,1%)
Nơi khách mua hàng (POP)
Truyền hình bằng mạng giây cáp (CATV), vệ tinh
Truy ền hình bằng phát sóng (33,5%)
Bích chương và yết thị
(5,5%)
Truyền đơn (7,0%)
Thư tín vv…(5,3%)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 58/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tổng cộng (65,7%) | Tổng cộng (34,0%) | Tổng cộng (0,3%) | ||||
Quyết định sử dụng môi thể nào tùy thuộc vào bộ phận được phân công giữ trách nhiệm việc đó. Trong một hãng buôn, bộ phận quảng cáo thường đặt dưới quyền chỉ đạo của Giám Đốc Tiếp Thị. Bộ phận này được sắp xếp thành tiểu ban theo tiêu chuẩn sản phẩm hay môi th ể truyền thông. Khi hoạt động kinh doanh của hãng có tính cách quốc t ế, bộ phận quảng cáo thường được đặt d ưới sự ki ểm soát c ủa Giám Đốc các hoạ t động hải ngoại. Tuy nhiên, ngày nay với những tổ chức đa quốc tịch, siêu quốc gia…lối tổ chức này không còn có tính cách cứng nhắc nữa. Trong nhiều xí nghiệp, chi nhánh hay hãng con hải ngoại đã có một sự độc lập nào đó với trung ương.
Theo Bạ ch Thư Về kiến các quảng cáo mại như sau:
Hoạ t Động Quả ng Cáo của Nhật Bả n năm 1988 (xem Shizuno, 1996), dẫn ý chủ cho biết tại sao họ thường dùng truyền hình để đạt đến mục đích thương
Đồ biểu 3.9: Hiệu Năng của Quảng Cáo Truyền Hình Áp dụng cho bất cứ hãng nào
Đưa tiếng
tăm xí nghiệp lên cao
Cho khách
biết
tên món
hàng
Cho khách
biết hoạt
động của
hãng
Nhật Báo | Truyền Hình | Tạp Chí | Khuyến Mãi | ||||
19,4% | 76,1% | 0,4% | 0,4% | ||||
7,7% | 83,3% | 2,1% | 1,4% | |||
82,0% | 2,1% | 6,3% | 1,4% | |||
Thông tin về
đặc điểm của
món hàng
36,6%
6,3%
36,6%
1,4%
Áp dụng nơi hãng của mình
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 59/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nhật Báo | Truyền Hình | Tạp Chí | Khuyến Mãi | |||||||||
Phô trương tên | 34,9% | 54,6% | 2,1% | 1,1% | ||||||||
tuổi của xí | ||||||||||||
nghiệp | ||||||||||||
Để bán được | 27,8% | 40,1% | 8,5% | 8,5% | ||||||||
mặt hàng | ||||||||||||
Rõ ràng những con số nói trên cho ta thấy, đối với người lãnh đạo xí nghiệp, truyề n hình là môi thể có hiệu năng tức kh ắc để nâng cao tên tuổi xí nghiệp và món hàng. Tuy nhiên, nó không giải thích rành mạch c ặn k ẽ được về hoạt động của hãng hay đặc đi ểm c ủa món hàng như các môi thể sử dụng chữ viết. Qua đồ bi ểu sau đây, Shizuno báo cáo cho ta biết hiệu năng cao c ủa quảng cáo truyền hình ở các thời điểm và trên các mặt hàng đầu ở một số trường hợp, nó phải nhường bước trước các môi thể khác.
Đồ biểu 3.10: So sánh hiệu năng quảng cáo của môi thể mỗi thời điểm
Thời Điểm/ Môi | Truyền Hình | Phóng Thanh | Nhật Báo | Tạp Chí | ||||||||
Thể | ||||||||||||
Giai đoạn phát | ||||||||||||
hiện nhãn hiệu | ||||||||||||
Hàng Ẩm Thực | 100,0 | 2,6 | 8,7 | 4,3 | ||||||||
Hàng Thông | 100,0 | 1,5 | 7,4 | 1,2 | ||||||||
Dung | ||||||||||||
Hàng Lâu Dài | 100,0 | 2,5 | 22,4 | 11,7 | ||||||||
Hàng Thời | ||||||||||||
Trang | ||||||||||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 60/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giai đoạn Thâu Thập Thông Tin
Hàng Âm Thực
Hàng Thông
Dung
Hàng Lâu Dài
Hàng Thời
Trang
Giai đoạn Quyết định mua hàng
Hàng Âm Thực
Hàng Thông
Dung
Hàng Lâu Dài
Hàng Thời
Trang
100,0
100,0
86,9
30,3
100,0
100,0
33,0
6,9
4,0 | 16,1 | 8,5 | ||
2,5 | 8,8 | 5,1 | ||
8,0 | 25,0 | 14,2 | ||
0 | 9,9 | 28,8 | ||
4,9 | 14,1 | 7,8 | ||
1,5 | 10,7 | 2,9 | ||
2,8 | 18,7 | 8,5 | ||
0 | 6,7 | 5,6 | ||
Như trên, ta thấy quảng cáo truyề n hình gây ảnh hưởng rất lớn trên hành động mua hàng cho dầu ảnh hưởng này suy yếu lúc người ta đứng trước quyết định cuối cùng. Ngay cả sự có mặ t của một người bán hàng tại chỗ để cho ý kiến nhiều khi cũng không làm lung lạc quyết định của khách hàng một khi trước đó họ đã xem quảng cáo truyền hình.
VII. CHI PHÍ QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
- Chi phí môi thể : Chi phí môi thể (media cost) của quảng cáo được tính theo đơn vị môi thể (media unit) nhưng trên thực tế, khi ký khế ước thực thi một chiến dịch quảng cáo, đôi bên chủ quảng cáo và hãng quảng cáo thường thỏa thuận sẵn một con số bao quát(package) sau khi đã đánh giá tầm cỡ của chiến
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 61/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
dịch và tình trạng cung cầu của thị trường quảng cáo lúc b ấy giờ. Như đã nói, trong trường hợp nhật báo , đơn v ị môi thể được tính theo con số báo được phát hành nhưng cũng tính theo số bán được, diện tích thương điệp trên mặt báo, vị trí của nó được đặt trên tờ báo, lối trình bày. Nó cũng được định giá qua số cột báo và thời gian đăng tải (ba, sáu hoặc chín tháng) . Tạp chí có thêm những tiêu chuẩn như trang trong hay trang bìa,kh ổ báo và số mẫu ph ải in. Còn truyền thanh thườ ng được ấn định bằng khâu giờ (A,B,C,D…) ví dụ như khâu gi ờ A là giữa 19 giờ và 22 giờ, khâu B giữa 8 và 9 giờ, gi ữa 18 và 19giờ…Khâu A là khâu cao giá nhấ t (prime time hay golden time), sau đó đến khâu B (sub prime time). Khâu D là khâu giờ v ề đêm (deep zone). Truyền hình cũng tươ ng t ự như thế nhưng chi li hơn. Ta thử xem cách phân định thời gian truyền hình của hãng NNN (Nhật Bản):
- Khâu A (cao giá nhất) : 19 giờ đến 24 giờ (thứ hai đến thứ sáu)
- Khâu B đặc biệt:từ 12 đến 14 giờ và 18 đến 19 giờ (thứ hai đến thứ sáu) -Khâu B thường: từ 7 đến 9 giờ và từ 14 đến 18 giờ (thứ hai đến thứ sáu) từ 8 giờ đến 12 giờ và 14 giờ đến 18 giờ (thứ bảy)
- Khâu D : từ 3 giờ đến 6 giờ sáng
- Khâu C : những khâu giờ còn lại
Nói v ề các loại chi phí quảng cáo, ta có thể c ử ra : chi phí môi thể, chi phí dựng phim hay mua phim quảng cáo, tiền huê hồ ng tr ả các hãng quảng cáo.Tất cả các loại chi phí đều dựa trên những bảng chiết tính của người trong nghề nhưng dĩ nhiên cũng tùy thuộc vào luật cung cầu củ a th ị trườ ng. Ngoài ra, ta có thể đề cập tới hai món chi phí khác là tiền bán khâu giờ phát sóng và tiền đường giây.
- Tiền bán khâu giờ phát sóng chia ra làm nhiều khoanh nhỏ. Hầu như tất cả các đài truyền hình lớn nhất ở Tokyo (theo số liệu năm 2000) đều bắt trả cho 30 phút lên đài vào giờ hoàng kim một món tiền là 1,9 triệu yên (tương đương USD 16500).
- Tiền đường giây thì hoàn toàn rẻ hơn. Nó gồm tiền chi phí cơ sở, chi phí
đường giây mạng toàn quố c, chi phí kỹ thuật cho vi ệc phóng ả nh. Tuy vậy mỗ i giờ lên đài trên mạng toàn quố c cũng đòi hỏi ngườ i chủ quảng cáo trả khoảng 60000Yên (tương đương USD 520) vào thời điểm đó.
- Chi phí dựng và mua phim quảng cáo: Để làm một đoạn phim quảng cáo (Spot CM), mua một cuộn phim hay tiết mục chương trình (Time CM) để xen các mẫu phim quảng cáo vào, tất cả đòi hỏi một món tiền đầu tư lớn lao. Người chủ quảng cáo có thể mua thẳng ở các đài truyền hình, các nhà sản xuất chuyên nghiệp những bộ phim đã có sẵn hay đề nghị họ làm cho mình. Trong các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, món tiền chi vào khoản này rất quan trọng. Để làm một mẫu phim (Spot) 15 giây đồng hồ ở Nhật, Ad-Menu, một tờ báo chuyên môn về
quảng cáo cho biết quảng cáo chủ phải bỏ ra từ 4 đến 9 triệu Yên (tương đương 30.000 đến 80.000USD). Nó bao gồm những món tiền như chi phí phác thảo,
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 62/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hành chánh, nhân sự, quản đố c, sản xuất, kỹ thuật… nhưng chưa kể tiền trả các tay tài tử gạo c ội, nòng cố t để đóng phim. Số tiền này có khi lên vượt qua 100 triệu Yên (gần bằng USD 870.000) nếu khi những nhân vật diễn xuất này có tầm cỡ quốc tế. Riêng về các tiết mục chương trình (Time) thì một chương trình lên đài vào khâu giờ hoàng kim do một nhà sản xuất tiếng tăm chủ trì thì một giờ phim phải trả lối 30 triệu Yên (USD 260.000) . Chính bởi vì giá ti ền dựng phim và mua phim cao đến thế nên số xí nghiệp dựng quảng cáo truyền hình ở Nhật chỉ có khoảng 300 hãng.
- Tiền huê hồng cho hãng quảng cáo: Các hãng quảng cáo thường “bao sân” nghĩa là phụ trách từ đầu đến cuối việc quảng cáo, từ lúc bán lại khâu giờ (mà họ đã mua khoán từ đài truyền hình) đến lúc dựng phim hay mua phim và phát sóng. Họ thường ăn khoảng 15% trên tổng số chi phí nhưng trong thời đại này, vì việc tính huê hồng (Commision) theo tổng số chi phí xem như không được minh bạch cho nên trong tương quan lực lượng mới, các chủ quảng cáo đã đòi các hãng quảng cáo phải tính theo con số thực sự từ các phí tổn (Fee) ghi trên hóa đơn.
Quy ết định của chủ quảng cáo dựa trên nhiều yếu tố như ng yế u tố quan trọng nhất có lẽ là giá đơn vị môi thể (Media Unit) dù môi thể ấy là gì đi chăng nữa
Đối với truyền thanh và truyền hình, đó là khâu giờ trong ngày hay trong tuần, và d ĩ nhiên độ phổ cập của đài đó trong quần chúng.Armand Dayan đã tóm lược quá trình chọn lựa môi thể như sau:
- Định nghĩa rõ ràng mục đích tiếp thị, đích nhắm của truyền thông tiếp thị và những trở ngại phải vượt qua.
- Loại trừ những môi thể không thích hợp vì luật lệ hay không dùng nổi vì giá cả quá cao.
- Nghiên cứu khả năng một chiến dịch phối hợp nhiều môi thể.
Để đạt được hi ệu quả tố i ưu, chủ quảng cáo phối hợp một chiến dịch quảng cáo trên nhiề u môi thể cùng một lúc. Trong khi thực hiện chiến dịch quảng cáo đồng loạt, cần phải lo ại trừ những diện tích quảng cáo trùng phức (duplication of audience) và ấn định được ngưỡng (threshold) của sức chịu đự ng quảng cáo nơi đối tượ ng quảng cáo, để thực hiện độ thẩm thấu có ích. Quảng cáo lối hi ệp đồng này đã đưa đến những kết quả tốt đẹp không ngờ và giúp được tiết giảm chi phí một cách rõ rệt.
CHƯƠNG BỐN
HÃNG QUẢNG CÁO
(THE ADVERTISING AGENCY)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 63/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. LỊCH SỬ CÁC HÃNG QUẢNG CÁO
Các hãng quảng cáo đóng vai trò đầu tàu trong kỷ nghệ quảng cáo. Chúng thực hiện những đồ án quảng cáo của xí nghiệp. Khở i thủy, chúng là những hãng đại lý hay môi giới (agency) đóng vai trò trung gian giữa chủ quảng cáo và báo chí, được thù lao bằng một món huê h ồng (commission). Theo Inada, có thuyết cho rằng hai người Anh đã sáng lập hãng quảng cáo đầu tiên năm 1611
- London, thuyết khác lại xem Théophastre Renaudot, nhà báo Pháp, mới là người lập hãng quảng cáo trước nhất ở Paris năm 1612. Dẫu sao, cũng theo tác giả nói trên, mãi đến thế kỷ 19, hai hãng quảng cáo có hình thức hiện đại mới ra đời ở Anh (Reynel Son , 1812) và ở Philadelphia trên đất Mỹ (hãng của Volney B. Palmer, 1841).
Thật ra, ở Mỹ, trước thời nội chiến Nam Bắc (Civil War), các hãng quảng cáo
bắt đầu bằng công việc mua sỉ khoảng trống trong nhật báo và tạp chí để bán lẻ
lại cho chủ quảng cáo. Người mua đi bán lại nhận từ nhà xuất bản một món
tiền khấu trừ, món tiền đó là huê hồng (Commission) trả cho công khó của họ.
Số tiền khấu trừ thường không đồng đều và giá bán cũng không được ấn định
theo một phương thức nào, cao hạ tùy trường hợp. Chủ quảng cáo muốn sửa
soạn một thương điệp phải nhờ sự tiếp sức từ bên ngoài xí nghiệp mình. Vai trò
đó được ủy thác cho người bán khoảng trống trên mặt báo. Anh ta có khi được
trả tiền, khi không, nhưng bề gì cũng đóng trọn vai người cố vấn hoặc nhân
viên kỹ thuật bên cạnh chủ quảng cáo, khích lệ cổ võ hoặc có khi khuyến cáo
họ.
Ngày nay, tuy các hãng quảng cáo không hề mua hộ khoảng thời gian (truyền thanh, truyền hình) hoặc không gian quảng cáo (nhật báo, tạp chí) cho người cậy qu ảng cáo nhưng họ luôn luôn ký kết để xí ph ần nơi nhà xuất b ản hoặc đài truyền thanh, truyền hình. Thông thườ ng, khi chủ quảng cáo chung tiền, họ sẽ lấy tiền đó để trả cho những cơ sở nói trên.
Thế rồi, từ việc bán khoảng thời gian trên đài truyền hình, hãng quảng cáo bán n ăng lực, sự hi ểu biếtvề công việc quảng cáo cho chủ quảng cáo.Họ nhận 100% tiền mua thời gian phóng ảnh từ tay chủ quảng cáo, giữ lại cho mình
15% theo tiêu chu ẩn. Dù là chủ quảng cáo lớn hay nhỏ, đều bắt buộc qua tay họ, có mu ốn đ i tắt cũng không được đài truyền hình giảm bớt tiền. Ngày nay, hình thức độc quyền này đang trở thành một vấn đề của ngành quảng cáo, điều này chúng ta sẽ bàn thêm sau.
Theo Printer?s Ink, năm 1955 ở Mỹ có trên 3000 hãng quảng cáo, mỗi hãng có trung bình 30 khách. Khi hãng quả ng cáo nh ận hóa đơn của đài truy ền hình, họ thường nhân nó lên 1,1765 để v ừa vặn đúng s ố 100 (85*1,1765) mà quảng cáo chủ phải thanh toán. Nh ư đã đề cập tới, ngoài món huê hồng (Commission) đó, hãng quảng cáo còn đòi hai loại chi phí (Fee), một trực tiếp, một gián tiếp.Chi phí trự c tiếp là tiền mướn diễn viên, chi phí làm phim…trên số tiền này hãng quảng cáo nhận thêm 17,65% huê hồng nữa. Trên nguyên tắc, thù lao cho công việc phụ trách bởi nhân viên của hãng quảng cáo thì được coi như gồm trong
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 64/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
15% (hay 17,65%) kia rồi nhưng có trường hợp, n ếu công việ c ấy quá lớn, hãng quảng cáo có thể tính dôi ra và đòi trả thêm. Có khuynh h ướng lại xem mức độ 15% này thiết l ập từ thời quảng cáo báo chương không còn hợp thời và vận độ ng tă ng thêm.Về phía chủ quảng cáo, họ cho 15% là quá lớn vì đài truyề n hình đã s ắp sẵn chương trình phóng ảnh theo khung th ời gian củ a họ, hãng quảng cáo ngoài việc chuẩn bị thương điệp, có phải bận tâm lo gì khác đâu.
Cuộc tranh luận về tiền huê hồng đến nay vẫn chưa hoàn toàn ngã ngũ. Năm
1955, bộ Tư Pháp Mỹ áp dụng Đạo Luật Chống Độc Quyền (Anti-Trust Law)
đối với Hiệp Hội Các Hãng Quảng Cáo (American Association of Advertising
Agencies, viết tắt là AAAA) và năm đoàn thể thuộc giới báo chí và xuất bản.
Lý do lịch sử này là từ năm 1917, ngành quảng cáo được tự do cạnh tranh cho
dến khi con số 15% huê hồng được đưa ra, trói buộc người cậy quảng cáo. Họ
không còn được phép thương lượng trực tiếp với các nhà xuất bản mà phải
thông qua hội viên của AAAA, điều mà phía chính phủ không chấp nhận.Từ đó
về sau, một số hãng quảng cáo đã tỏ ý muốn chuyển hướng và tính hóa đơn
dựa trên kinh phí chính xác chứ không đòi hưởng huê hồng theo độ bách phân
cố định nữa. Một số hãng quảng cáo Mỹ ngoài huê hồng cũng đòi hỏi một món
tiền công tính theo mức tăng của doanh số mà chủ quảng cáo đạt được.Tuy
nhiên, chế độ tiền công (fee basis) này không được áp dụng lâu dài bởi vì một
thương điệp có thể làm tăng doanh số ở một thời điểm hay địa phương nào đó
nhưng có thể bị thất bại ở lúc khác và ở một chỗ khác.Hơn nữa, việc đo lường
hiệu quả của quảng cáo không thể thực hiện ngày trước ngày sau mà phải đợi
một thời gian dài vì hiệu quả quảng cáo có khi đến từ từ. Do đó, tính tiền công
hãng quảng cáo theo huê hồng cố định lại được xem là lối tính toán phải chăng
nhất. Kết luận hợp lý nhất có lẽ nằm trong phúc trình của hai giáo sư A. Frey
và K. Davis (Darmouth College, 1958) gửi cho Hiệp Hội các Chủ Quảng Cáo
Mỹ (The Association of National Advertisers, viết tắt là ANA): trong tương lai,
cách thù lao các hãng quảng cáo ngày càng phải sát với thực tếhơn xưa.
Theo thống kê của Bộ Kỷ Nghệ và Mậu Dịch Quốc Tế (MITI), năm 1993, ở Nhật cũng có đến 4746 hãng qu ảng cáo vớ i 93.481 nhân viên , 73% là nam và 27% là nữ. Phần l ớn (42%) làm trong việc bán dịch vụ, 19% sản xuất, 20% trong quản trị,?% trong khuy ến mãi và giao thiệp (SP & PR), 7% ph ụ trách về môi thể và 4% trong điều tra hiệu quả quảng cáo. Phần lớn các hãng quảng cáo
- Nhật tổ chức rất gọn nhẹ (90% các hãng có dưới 30 nhân viên, 30% có dưới
3 người) và tập trung ở các thành phố lớn như Tokyo (23,7%) và Osaka (16,3%) . Riêng hai địa điểm này, trong năm 1986, đã thực hiện được 76,5% doanh thu của cả nước. Các hãng quảng cáo Nhật cũng có lịch sử lâu đời. Dentsu thành lập từ năm 1901, cùng với Hakuhodo, chẳng thua kém gì các tên tuổi lớn trong nghề như Young & Rubicam, Mc Can Erikson, BBDO hay Ogilvy &Mather…
Sau đây chúng ta thử nhìn t ầm cở của các hãng và tập đoàn quảng cáo đa quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 65/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hình nói riêng (theo Advertising Age, 27/04/1998 trích dẫn bởi Niên Giám về Tiếp Thị và Quảng Cáo Nhật Bản 1999, Japan 1999 Marketing and Advertising Year Book,):
Đồ biểu 4.1: 10 hãng quảng cáo hàng đầu thế giới năm 1997 (đơn vị : triệu đô-la Mỹ)
Thứ hạng | Hãng Quảng Cáo | Lợi nhuận | Số doanh thu | |||||
(thô) | ||||||||
1 | Dentsu | 1927,1 | 14192,3 | |||||
2 | McCann- Erikson | 1451,4 | 11016,1 | |||||
3 | JWalter Thompson | 1120,9 | 7637,3 | |||||
4 | BBDO | 989,6 | 8058,9 | |||||
5 | DDB Needham | 920,2 | 6881,9 | |||||
6 | Grey Advertising | 918,3 | 6125,4 | |||||
7 | Euro RSCG | 883,2 | 6536,0 | |||||
8 | Leo Burnett | 878,0 | 5977,1 | |||||
9 | Hakuhodo | 848,0 | 6475,6 | |||||
10 | Ogilvy & Mather | 838,4 | 7375,0 | |||||
Đồ biểu 4.2: 10 tập đoàn quảng cáo hàng đầu thế giới năm 1997 (đơn vị: triệu đô-la Mỹ)
Thứ hạng | Tập đoàn quảng | Lợi nhuận (thô) | Số doanh thu | |||||
cáo | ||||||||
1 | Omnicom Group | 4154,3 | 31699,1 | |||||
2 | WPP Group | 3646,6 | 27765,7 | |||||
InterpublicGroup | ||||||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 66/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3 | Dentsu | 3384,5 | 25694,4 | |||||
4 | Young&Rubicam | 1987,8 | 14473,3 | |||||
5 | True North | 1497,9 | 13006,4 | |||||
Grey | ||||||||
6 | 1211,5 | 10807,2 | ||||||
Advertising | ||||||||
7 | 1143,0 | 7648,6 | ||||||
Havas | ||||||||
8 | 1033,1 | 7780,1 | ||||||
Leo Burnett | ||||||||
9 | 878,0 | 5977,1 | ||||||
Hakuhodo | ||||||||
10 | 848,0 | 6475,6 | ||||||
Các hãng quảng cáo cỡ l ớn như thế đều có thể phụ trách tất cả các môi thể. Ở Nhật chẳng h ạn, Dentsu và Hakuhodo thuộc loại “đa khoa” này. Tuy nhiên, ta cũng nhận ra rằ ng do những điều kiện đặc biệt, một hãng quảng cáo có thể đả m đương một môi thể tốt hơn những môi thể khác. Đó là trường hợp củ a Asatsu đối với hai bộ môn Tạp Chí-Truy ền Hình, Tokyu đối với những môi thể ngoài bốn môi thể đại chúng chính yếu (Truyền Thanh, Truyền Hình, Nhật Báo và Tạp Chí). Trong khi các hãng quả ng cáo Âu Mỹ bao trùm hầ u hết các lục địa nhất là từ những năm 1980 khi có sự ra đờ i của các tập đoàn quảng cáo qu ốc tế, các hãng quảng cáo Nhật chỉ sở trường về qu ảng cáo quốc nội (và như th ế ngăn chặn các hãng khác vào xí phần). Ở Nhật, sự liên kết và trung thành giữa xí nghiệp và một hãng quảng cáo rất thường thấy.
Khi nói về doanh thu và lợi nhuận thô của một hãng quảng cáo hay một tập
đoàn quảng cáo đa quốc gia, người ta chỉ nói mộ t cách tổng quát. Trong những con số trình bày như trên phải chia ra ít nhất làm hai phần:
-Quảng cáo trên bốn môi thể truyền thông đại chúng (major media)
-Quảng cáo bằng những phương pháp khuyến mãi (sales promotion)
Bảng phân tích về chi phí cho quảng cáo ở Nhật Bản trong thời gian từ 1995 đến 1997 cho ta những chi tiết sau:
-Quảng cáo trên 4 môi thể truyền thông cơ b ản (major media): 65,7% (trong đó nhật báo chiếm 21,1%, tạp chí 7,3%, truyền thanh 3,8%, truyền hình 33,5%)
-Quả ng cáo trên tân môi thể (new media) như truyề n hình vệ tinh, truyền hình bằng mạng dây cáp..) mới bắt đầu chưa lâu nên chỉ chiếm 0,3%.
-Quảng cáo bằng các phương pháp khuyến mãi (sales promotion) : 34,0% (trong
đó triển lãm, trưng bày 6,1%, niên giám điện thoại 3,1%, quảng cáo tiệm quán
(point of purchases hay POP) 2,8%, quảng cáo trên xe tàu 4,2%, quảng cáo
bảng hiệu bích chương 5,5%, quảng cáo truyền đơn bươm bướm 7,0%, quảng
cáo trực tiếp (điện thoại, viếng tận nhà, direct marketing hay DM) 5,3%.
Chúng ta thấy c ứ 100 bỏ ra cho kinh phí qu ảng cáo thì có 1/3 đã dùng vào truyền hình. Có những quốc gia, quảng cáo trên báo chí hãy còn khá mạnh
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 67/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
(Pháp, Đức) vì truyền thống tôn trọng chữ vi ết ở nơi đó, nhưng nói chung, phân số 1/3 này thấy ở nhiều n ơi nh ư Mỹ và Nhật mà 1/3 trên t ổng số chi phí quảng cáo có nghĩa là trên 1/2 ( tỷ lệ 33,5:65,7) trên chi phí cho bốn môi thể đại chúgg (mass media).
Hãng quảng cáo không cần nhiều tư sản, máy móc thiết bị , bất động sả n. Vố n lớn nhấ t của mộ t hãng quảng cáo là con ngườ i : năng lực sáng tạo, kỹ thuật chuyên môn, s ự gắn bó v ới nghề nghiệp, kinh nghiệm ngoại giao… Những hãng nào có đầy đủ các yếu tố đó sẽ giữ được khách hàng lâu dài.
Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu cơ cấu tổ chức một hãng quảng cáo:
II. CƠ CẤU VÀ CHỨC NĂNG TRONG MỘT HÃNG QUẢNG CÁO
Hãng quảng cáo, tùy theo nguồn vốn và phương pháp làm việc, có thể có những loại hình khác nhau:
-Hãng phục vụ toàn diện (Full-Service Agency) thường là nhữ ng hãng lớn, có tầm cỡ qu ốc tế như Young & Rubicam hay Mc Cann-Erickson Worldwide. Họ phụ trách mọi lãnh vực từ hành chánh đến tiếp thị, từ nghiên cứu đến soạn thảo và thực hiện.
?-Hãng sáng tác (Creative Boutique) giới hạn công vi ệc c ủa họ trong lĩnh vực nghệ thuật. Loạ i hãng này cung cấp ý kiến mới và độc đáo (Idea Factory). Xí nghiệp sử dụng dịch vụ của loại hãng này phải tự đảm đương hay nhờ ngườ i khác đảm trách những phần việc còn lạ i. Nhiều hãng dịch vụ toàn diện như Mc Cann-Erickson mở thêm một hãng con để chuyên trách về mục sáng tạo.
-Hãng mua môi thể (Media- Buying Service) hãng này chuyên mua không gian (trang báo) và thời gian (gi ờ phát thanh hoặc truyền hình) của các môi thể và bán lại cho chủ quảng cáo. Khi lập phương án quả ng cáo, chủ quảng cáo tùy thuộc vào họ để biết phải phân chia ngân sách trong những đi ều kiện nào. Nh ững hãng này có thể cung cấp không gian và thời gian quảng cáo rẻ tiền vì họ đã bao thầu trước (mua sỉ) ở những môi thể .Tuy nhiên, ngược lại, họ cũng có thể lợi dụng vị trí ưu tiên củ a mình nếu không có một sự cạnh tranh nào đáng kể từ phía các đồng nghiệp của họ.
-Hãng quảng cáo song phươnghay giao hỗ(Interactive Agency) chuyên giúp các hãng thực hiện chương trình quảng cáo trên mạng Internet, truyền hình song phương hay giao hỗ (Interactive TV), CD-ROM vv… ngh ĩa là loại quảng cáo các phương tiện truyền thông “tay đôi”, nơi người quảng cáo có th ể đối thoại để trao đổi thêm với người nhận quảng cáo. Loại hãng này còn có tên là Cyberagency.
Nhữ ng hãng quảng cáo truy ền thống như Ogilvy & Mather, Grey Advertising, Leo Burnett cũng đuổi theo thời đại bằng cách phát triển hoạt động trong lãnh vực này. Grey Interactive Worldwide của nhóm Grey Advertising đã có những khách hàng cỡ lớn như Microsoft, KLM, British Telecom…
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 68/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
-Hãng quảng cáo nội-xí nghiệp (In-house Agency) có nghĩa là những hãng ở bên trong một đạ i xí nghiệp. Nó là phân bộ quảng cáo của một xí nghiệp lớn, hoặc v ốn có một chủ trương quảng cáo riêng của mình hoặc không muố n bỏ tiền quảng cáo cho ng ười khác ăn. Một hãng như NEC của Nhật có khi đảm đương nỗi mộ t kế hoạch quảng cáo mà kinh phí lên đến 40 triệu đô la. Tuy nhiên, dù có khi đạt được hiệu quả như ý nhữ ng qu ảng cáo dưới hình thức tổ ch ức nh ư th ế này nhiều khi sa vào những l ầm lỗi vì chủ quan, thi ển cậ n và thiếu năng lực chuyên môn mà người ta chỉ thấy có ở những hãng thực sự chuyên nghiệp.
D. Benett (trong S.Monye) lại phân loại các hãng quảng cáo như sau:
- = Hãng quảng cáo toàn diện (Full-service ad agencies) trung tâm của nhóm, thường có tính cách quốc tế.
- = Hãng chuyên về một môi thể (Media independents ) rành nghề đối với một môi thể nào đó, vốn thoát thai từ A nhưng có chiến đấu tính, gây khó khăn cho
- = Hãng quảng cáo cấp dưới (Below-the-line agencies ) phạm vi hẹp hơn và chuyên môn hơn, ít thiên về quảng cáo đại chúng.
- = Cố vấn quảng cáo (Management Consultants) độc lập, cố vấn, có vai trò đi sát với khách hàng nhiều hơn hãng quảng cáo.
- = Hãng quản lý các môi thể (Medias Owners ) làm trung gian phân phối môi thể.
- = Technology Company (bán phần mềm, trò chơi..)
- = Film and Related Technologies (làm phim, bán phim quảng cáo và phim giải trí, là những vật liệu điểm tựa cho quảng cáo).
Trong mộ t hãng quảng cáo, đặc biệt phụ trách quảng cáo trên truyền hình, chúng ta thấy có những vai trò sau đây:
- Kế hoạch và chỉ đạo (Top Executive Planning)
- Doanh nghiệp và liên lạc (Account Management)
- Thiết kế (Copy)
- Chế tác (Production)
- Mỹ thuật, kỹ thuật(Art)
- Môi thể (Media)
- Điều tra nghiên cứu (Research)
- Đặc biệt (Special) ví dụ phụ trách kế hoạch thương phẩm (Merchandising) và ngoại giao (PR: Public Relations)
- Bộ phận hành chính, kế toán (Administration)
Vai trò kế hoạch và chỉ đạo nằm trong tay tổng giám đốc và các giám đốc thương mại, những người trách nhiệm trên cùng ở một hãng quảng cáo. Họ là
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 69/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
những k ế ho ạch định phương châm, phương pháp, mục đích c ủa hãng và người tiếp xúc với cấp lãnh đạo về phía chủ nhân quả ng cáo. Vai trò doanh nghiệp và liên lạc được giao phó cho người chuyên môn phụ trách khách hàng (Account Executive hay AE). Có khi một AE chỉ phụ trách một khách hàng nếu là khách quan trọng, bằng không mộ t AE có thể phụ trách một s ố khách hàng (accounts). Tấ t cả hoạt động quảng cáo đều bắt đầu bằng hội nghị . Sau khi nhận được sự ủy thác của chủ quảng cáo, một hội nghị gồm những nhân vật sau đây sẽ được mở ra:
- Người trách nhiệm về thực hiện phim (creation)
- Người trách nhiệm về văn bản (copy) đối với đài truyền hình
- Người viết văn bản (writer) cho chủ quảng cáo
- Giám đốc mỹ thuật và kỹ thuật truyền hình (art )
- Giám đốc chế tác ở đài truyền hình (production)
- Người trách nhiệm về môi thể (media)
- Người trách nhiệm về điều tra (research)
Cần phải kể thêm người trách nhiệm ngoại giao (PR) và người trách nhiệm khâu
quản lý thương phẩm (merchandising). Trong buổi họp này, người đảm nhiệm
khách hàng (AE) thông tri cho các đồng nghiệp những đòi hỏi, chủ đề muốn
trình bày, ưu điểm và nhược điểm của món hàng, kế hoạch ngắn hạn hoặc dài
hạn của chủ quảng cáo.Vì thương điệp sẽ được tạo ra theo nhu cầu của chủ
quảng cáo nên nhóm người làm phim quảng cáo phải hiểu được sở thích, thị
hiếu, những kiêng kỵ của khách hàng để thương điệp một khi hình thành không
bị bác bỏ bởi chủ quảng cáo. Ngay cả việc chọn người trình diễn hay một khẩu
hiệu đều có thể gây bất đồng ý kiến: để quảng cáo cho thuốc lá Camel, phải
tránh dùng chữ lucky (may mắn) vì như thế sẽ gợi cho người xem hình ảnh cua
Lucky Strike, một nhãn hiệu cạnh tranh.
Kinh phí chế tác thương điệp truyền hình tùy theo thể loại được lựa chọn (chúng
ta sẽ đề cập ở chương 7) nhưng trên nguyên tắc thường được chia làm 2 phần:
phần liên quan đến sáng tạo (hay “trên đường ranh”, above the line) và phần liên
quan đến chế tạo (“dưới đường ranh”, below the line). Phần trên gồm chi phí cho
người diễn xuất, người sản xuất, người xướng ngôn, tác quyền truyện phim và
âm nhạc, chi phí phim ảnh và giao thông vận chuyển…, phần dưới gồm tiền
mướn hay dựng sân khấu, phông cảnh, dụng cụ, hóa trang, y phục, tác dụng âm
thanh và ánh sáng, chi phí thu hình, lồng phim, cắt xén phim, chiếu thử…Hãng
quảng cáo có thể tự lực xây dựng cốt truyện (Story) và phiếm họa diễn biến cốt
truyện (Story Board) nhưng có khi phải dùng người bên ngoài. Về phương diện
chế tác, phần lớn họ đưa vào những nhà chuyên môn về phim ảnh và sự hiệp lực
của các cố vấn (television advertising consultants).
- Mỹ, bảng giá của các môi thể được công bố mỗi tháng một lần qua ấn bản Standard Rate and Data. Ngoài ra Văn Phòng Thông Tin Của Các Nhà Ấn Hành tức Publishers Information Bureau (PIB) cũng cho in tờ Rorabaugh Report, quý
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 70/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
san thông tin về các con số về ngành quảng cáo. Về mặ t cung cấp tin tức, cũng nên kể đến các loại báo chí như Television Digest (mỗi năm 2 kỳ), Television Factbook, Broadcasting Television Magazine hay Telecasting Yearbook (th ường niên). Về đ iều tra d ư luận và thị trường, có thể nói mọ i hãng quảng cáo lớn đều có cơ quan điều tra riêng, nếu không, họ dùng dữ kiện thu thập bởi các hãng điều tra bên ngoài. Nắm được tâm lý thị trường là một yếu tố rất quan trọng để xây dựng những ý tưởng, khẩu hiệu, cốt truyện ăn khách.
Các hãng quảng cáo Mỹ được trả tiền công khác với cách thù lao của bác sĩ , lu ật sư hay kế toán viên. Như đã trình bày trong phần tổng luận và xin phép lập lại nhưng khai triển thêm ở đây, đó là huê hồng (Commission) dựa trên món tiền người chủ quảng cáo bỏ ra cho kế hoạch quảng cáo. Ví dụ hãng quảng cáo đòi ch ủ qu ảng cáo trả 1 triệu đô la để phát sóng cho mộ t thương điệp nào đó thì họ sẽ làm sao để chi trả hãng truyền hình 850 nghìn và giữ lại 15% tức là 150 nghìn đô la. Một l ối thù lao khác lối phụ thu (Markup Charges),một phần trăm nào đó trên mỗi thứ phải chi tiêu bên ngoài hãng quảng cáo bởi vì hãng quảng cáo nhiều khi phải đảm đương những chi tiêu ngoài khuôn khổ kh ế ước giữa họ và chủ quảng cáo. Món phụ thu này thường được tính từ 17,65% đến 20%. Cách thù lao thứ ba là thù lao theo công nhật (Fees Systems ) hay công suất lao động (Labor-based Fees) nghĩa là lối trả tiền công theo thời giờ hãng quảng cáo bỏ ra để làm việc cho chủ quảng cáo. Loại tính tiền này cũng thể như lối tính thù lao của các người hành nghề tự do. Công nhật tính theo lương của người phụ trách hay lương trung bình củ a phân bộ mà người ấy tùy thuộc. Nó còn có thể tính theo một con số cố định ( Fixed Fee) th ỏa thuận giữa chủ và hãng quảng cáo. Gần đây, có thêm lối tính tiền công tùy theo thành quả đạt được (Pay-for-Result Compensation Plans) nhưng tiêu chuẩn để định giá thành quả, như đã đề cập ở trên, vẫn là một cái gì hơi mơ hồ vì còn tùy thuộc vào biết bao điều kiện.
Kết quả kiểm tra giữa hai thời điểm, một vào năm 1992 và lần khác vào năm
1995 cho ta biết lối thù lao theo huê hồng 15% đã giảm từ 33% xuống 14%,
trong khi lối thù lao bằng huê hồng dưới mức này đã tăng từ 26% đến 45% và
lối tính tiền theo công nhật đã từ từ tiến từ 32% lên 35% (O?Guinn dẫn Cohen
Selinger, 1995).Ngoài ra, các hãng quảng cáo cũng chìu khách và giữ khách,
chấp nhận hình thức cạnh tranh với một đồng nghiệp khác bằng cách bỏ thời giờ
và công sức để trình bày phương án riêng của mình, nhiều khi tốn công mà
chẳng được gì. Có hình thức hai hãng quảng cáo chia nhau một công việc (Split
Decision of Assignment). Khi United Airlines muốn bỏ hãng quảng cáo Leo
Burnett, họ dùng hai hãng khác nhau hiệp lực làm chung một quảng cáo. Mc
Donald có lần nhờ ba hãng khác nhau, A T & T nhờ cả bốn. Trong trường hợp
cạnh tranh ráo riết, hãng quảng cáo có lúc phải tự quảng cáo cho chính mình
(Self Promotion).
Ngày nay, các hãng qu ảng cáo có khuynh hướng chấn chỉnh (redesign) l ại phương pháp làm việc và chúng ta thấy xuất hiện loạ i hàng tiế p thị liên kết (IMC Agency hay Integrated Marketing Agency), một hình thức mới của
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 71/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hãng quảng cáo có tham vọng đi xa hơn lĩnh vực quảng cáo hiểu theo nghĩa
thông thường mà còn lấn qua cả khu vực ngoại giao với khách hàng (Public
Relations), quảng cáo bằng tổ chức triển lãm, hội hè (Event-Marketing), quảng
cáo trực tiếp (DM hay Direct Marketing ví dụ qua thư tín, điện thoại, chào hàng
tận nhà). Các hãng quảng cáo cũng cố gắng bắt kịp thời đại bằng cách đi vào
lĩnh vực của những môi thể truyền thông có tính cách song phương hay giao hỗ
(Interactive Media). Chúng còn đóng vai người trợ lực (Facilitors), người môi
giới (Intermediators) và người tổ chức để mọi hoạt động quảng cáo và hoạt động
ngoại vi của nó được trôi chảy tốt đẹp.
CHƯƠNG NĂM
ĐÀI TRUYỀN HÌNH
( TELEVISION NETWORK )
Truyền hình được coi như môi thể đánh dấu thế kỷ 20. A. Abramson (trong
- Smith & R. Paterson,1998) cho rằng phát minh của truyền hình đã có mầm mống từ trong các công trình nghiên cứu về luồng điện từ thế kỷ 17 và 18 với những tên tuổi như L. Galvani, A.Volta, H. Oersted, A. Ampère, G.Ohm, M.Faraday và J.Clerk Maxwell chưa kể những nhà ứng dụng như Samuel S.B. Morse, A. Bain, A. Bell và Th. Edison. Hai mốc chính: năm 1880, Maurice Leblanc truyền hình ảnh động qua dòng điện và năm 1884, người Đức Paul Nipkow lấy bằng sáng chế về dụng cụ tên gọi Elektrisches Teleskop, một hệ thống với 2 đĩa có đục lỗ hổng truyền được hình ảnh bằng hiệu ứng sinh ra từ nhiệt điện. Ngày 25 tháng 8 năm 1900, chữ Television (Truyền Hình) đã được dùng đầu tiên bởi Constantin Perskyi ở Hội Chợ Đấu Xão Paris 1900 khi nói đến một cái máy giúp ta nhìn (vision) những vật từ xa (tele) dựa trên từ tính của một chất xúc tác tên gọi selenium..Tên tuổi mới này đã thấy những cái tên cũ như Telephot hay Telectroscope. Kỹ thuật truyền hình với ống nhiếp ảnh (iconoscope tube, còn gọi là ống quang điện, có khả năng biến đổi ánh sáng đến từ ảnh tượng thành những điện tố) đã được khám phá năm 1934 bởi người Mỹ gốc Nga, tiến sĩ Vladimir Zworykin. Như thế, việc khám phá ra truyền hình có thể gọi là một công trình tập thể và quốc tế vì ta cũng không thể bỏ qua tên tuổi những người đóng góp khác như giáo sư Boris Rozing (Nga, 1907), người đã khai đường mở lối cho sự thành công của môn đệ của ông là Zworykin cũng như các nhà phát minh khác như A.A.Camphell Swinton (Anh, 1911) và Charles Francis Jenkins (Mỹ, 1922).
Như thế, kỹ thuật truyền hình không do một người làm ra mà là kết quả của một chuỗi phát minh và cải tiến không ngừng trên nửa thế kỷ từ 1890 đến
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 72/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1950. Theo Francis Balle, khi người Anh John Logie Baird truyền hình bằng
sóng đầu tiên năm 1923 thì ảnh chỉ có 16 đường kẻ. Sau đó, kỹ thuật đã được
hoàn chỉnh ở Mỹ và khi Pháp truyền hình từ tháp Eiffel lúc 20h15 ngày 25
tháng 4 năm 1935, ảnh đã có dến 120 đường kẻ. Nước Anh bắt đầu truyền hình
từ năm 1936 và thế vận hội lần thứ bảy ở Bec-lin đã được Tổng Cục Bưu Điện
Đức (DRP) cho truyền hình. Riêng lịch sử của truyền hình nước Mỹ đã kinh
qua nhiều trắc trở và chỉ thực sự bắt đầu năm 1948 khi Ủy Ban Truyền Thông
Liên Bang (FCC=Federal Communications Commission) cho phép trên 100
trạm truyền hình hoạt động và đó là khởi điểm cho những hệ thống truyền hình
(network) nổi tiếng về sau như CBS, NBC hay ABC…Những cái mốc đánh dấu
lịch sử truyền hình là những lần truyền hình các sự kiện ” to tát” (trên quan
điểm truyền thông bởi vì lúc đó máy truyền hình bán chạy nhất) như lễ đăng
quang của nữ hoàng Elizabeth II ở Anh, cuộc thắng cử của Tổng thống Mỹ
Kennedy cũng như đám cưới của Hoàng thái tử Nhật Akihito và lần trực tiếp
truyền hình cuộc thám hiểm mặt trăng của phi hành đoàn Neil Amstrong. Chỉ
trong vòng 50 năm (1950-2000), truyền hình phát sóng đã trở thành môi thể
truyền thông đại chúng (Mass Media) trước khi bước qua thời đại truyền hình
phát bằng đường giây cáp, rồi truyền hình bằng vệ tinh, để có cái tên tiếng
Pháp là “tân truyền hình” (néotélé) mà nội dung vô cùng phong phú, kỹ thuật
vô cùng đa dạng và phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn từ địa phương, khu
vực cho đến tầm cỡ địa cầu.
Đứng về mặt tổ chứ c mà nói, Arther Bellaire cho biết ở Mỹ,khi truyền hình đượ c giấy phép mở chi cục truyền hình n ăm 1928, phẩm chất âm thanh và hình ảnh hãy còn kém.Tạp chí Business Week số tháng 12 năm 1938 đã xem năm ấy như là Năm Của Truy ền Hình đánh dấu bằng chương trình truyền hình lễ khánh thành Hội Chợ Quố c Tế New York vào tháng 4 cùng năm. Đến 1946, đã có 12 chi cục và trên nước Mỹ đã có 2 đến 3 nghìn máy truyền hình tuy việc phóng ảnh vẫn còn ở trong thời kỳ thí nghiệm. Có thể nói kỹ thuật truyền hình đã có từ một thế kỷ nhưng nó chỉ đến với quần chúng 50 năm nay là cùng.
Theo thống kê của trung tâm đ iều tra A.C. Nielsen, ta thấy truyền hình phát triển rất nhanh ở Mỹ, quốc gia dẫn đầu về ph ương tiện truyền thông đại chúng. Nếu n ăm 1950, 43.600.000 nóc gia chỉ trang bị có 4.200.000 máy (tỷ lệ thiết bị 10%) thì chỉ trong vòng 8 năm sau (1958) , 50.500.000 nóc gia đã có đến
42.500.000 máy, mức độ thiết bị như th ế đã lên tới 84%.Cho đến năm 1953, truyền hình ở Mỹ ch ỉ có những đài Cao Tần (VHF hay Very High Frequency vớ i làn sóng 30 -300 Mc) có khả năng đường kênh (channel number) giới hạn (2 đến 13). Sau đó, họ khai thác thêm làn sóng Siêu Tần (Ultra High Frequency, 300-3000 Mc) để đưa số đường kênh lên đến 68 nhưng hai loại sóng này vẫn được dùng song song.
Như thế, truyền hình ở Mỹ phổ biến sâu rộng vào thời 1945-1955 và nó đi
trướ c Âu Châu khoảng 10 năm. Nó qu ả là môi thể đại chúng vì năm 1990, 87% nóc gia Mỹ nhận được tín hiệu của 11 đài mi ễn phí và hơn 30% xem được trên 30 đài. Năm 1998, cứ hai trên ba nóc gia Mỹ chịu bỏ tiền để xem đài trên mạng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 73/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
cáp và 66% các hãng khai thác đài dây cáp đề nghị với khách 53 đài. Đó là chưa kể 9 triệu nóc gia ghi tên mướn đài truyền hình vệ tinh.
Truyề n hình thương mại ở Hoa Kỳ đã phát triển đến đỉnh cao từ năm 1958 và 3 mạng đài chính chi phối tất cả hệ thống phát sóng mặt đất (hertzien). Đó là ABC (American Broadcasting Company), NBC (National Broadcasting Company) và CBS (Columbia Broadcasting System).Tuy nhiên, để tránh sự chi phối và tính cách quá thương mại của nó, chính ph ủ Mỹ đã vận động thành lậ p mạng giáo dục PBS (Public Broadcasting System) mà chương trình đặt trọng tâm vào giáo dục và công ích. Từ năm 1980, mạng này đ ã có đến 300 trạm phát sóng.Cũng vào thời điểm này, đánh dấu sự ra đời (1975) và trưởng thành nhanh chóng của các mạng đài dây cáp. Theo số li ệu của NTCA (1998, dẫn bởi Francis Balle) con số khách đăng ký 20 đài trên mạng cáp lớn nhất ở Mỹ là 60 triệu đến 73 triệu cho mỗi đài (được bi ết tới nhiều nhất là Discovery về tài liệu, ESPN về thể thao và TBS về mọi lãnh vực). Một số đài đủ mọi màu sắc hợp lại thành mộ t hãng đ iều phối đài (Cable Operator) và hãng này lại có khách hàng riêng của họ (n ổi tiếng nhất là TCI với trên 11 triệu và Time Warner Cable với 6,5 triệu khách đăng ký). Mạ ng đ ài vệ tinh (như DirecTV, bắt đầu năm 1994, đã có gần 5 triệu khách đăng ký). Trong khi đó, giữa nă m 1978-1994, số khách của bộ ba ABC, NBC va CBS sút giảm từ 90% chỉ còn 50% toàn bộ thị trường.
Các đài truyền hình tư nhân sống bằng tiền quảng cáo, nếu không có tiền này
thì nội dung truyền hình chắc chắn sẽ rất nghèo nàn vì không có phương tiện
đài thọ việc chế tác chương trình như ký sự, kịch truyền hình, và ngay cả
chương trình tin tức. Những đài mạng cáp hay vệ tinh còn có tiền thuê (đài cơ
bản và đài phụ trội). Hãy xem đồ biểu sau đây để có một khái niệm về thu nhập
của những dài dây cáp ở Mỹ (Francis Balle dẫn nguồn tin NCTA) :
Đồ biểu 5.1 : Thu nhập các đài mạng cáp Hoa Kỳ (đơn vị: triệu đô-la)
1980 | 1985 | 1990 | 1995 | 1997 | ||||||||||||
Tiền thuê đài | 2549 | 8831 | 17582 | 25556 | 30784 | |||||||||||
Thuê cơ sở | 1615 | 4138 | 10174 | 16860 | 20405 | |||||||||||
Thuê phụ trội | 765 | 3610 | 4882 | 4571 | 4594 | |||||||||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 74/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quảng cáo
50 | 815 | 2524 | 575 | 7859 | ||||
Xuất xứ : Francis Balle,Médias et Sociétés, Paris, 1999.
Chúng ta thấy tỷ lệ giữa quảng cáo và toàn bộ thu nhập đã thay đổi hẳn giữa 1980 và 1997 (1,9% năm 1980 và 20,33% năm 1997).
- Nhật Bản, truyền hình cũng đã ra đời trong thời hậu chiến. Truyền hình Nhật Bản có điểm đặc biệt là sự tồn tại của đài công cộng NHK (Nippon Hoso Kyokai) và các đài tư nhân (Mimpo). NHK có 3 chương trình truyền thanh quốc nội, 4 đài truyền hình (trong đó 2 đài truyền bằng vệ tinh), một chương trình truyền thanh và một đài truyền hình quốc tế (TV Japan) , mướn 15000 nhân viên (số liệu năm 1993). Đây là đài sống bằng tiền mướn (một loại thuế) của 79,7% của 43 triệu nóc gia Nhật Bản. Truyền hình NHK gồm các đài GTV ( 1953, Tổng quát), ETV (1959, Giáo dục) là hai đài sóng mặt đất (hertzien), BS1 (1987, Thời sự, Thể thao) và BS2 (1987, Tổng quát, Văn hóa) là hai đài vệ tinh. Về các đài tư nhân, ta có thể nhắc tới 5 mạng truyền hình với tất cả 123 đài địa phương trên toàn quốc. Những mạng này sống bằng tiền quảng cáo và đài thọ. Đặc điểm của chúng là mối liên lạc với các nhật báo và dùng làn sóng mặt đất, ngoại trừ Wowow (1991), đài vệ tinh. Năm đài ấy được liệt kê như sau :
-NTV (Nippon Television,1953, 26 đài, liên hệ với nhật báo Yomiuri)
-TBS (Tokyo Broadcasting System, 25 đài, 1955, liên hệ với nhật báo Mainichi)
-Fuji Television (26 đài, liên hệ với nhật báo Sankei)
-TV Asahi (17 đài, 1956,liên hệ với nhật báo Asahi)
-TV Tokyo (4 đài, 1964, liên hệ với nhật báo Nihon Keizai).
Các nước Âu châu như Pháp, Đức, Anh, Ý cũ ng đi từ độc quyền truyền thông qua cạnh tranh tự do. Pháp đã giải thể tổ chức chính phủ ORTF từ năm 1964. Bên cạnh tổ chức chính phủ RAI ở YÙ cũng đã có đài tư nhân từ 1976. Chế độ độc quyền đã chuyển qua chế độ cạnh tranh từ 1954
- Anh. Trên toàn thể nước Đức thống nhất là có một hệ thống lưỡng nguyên (duale rundfunkordnung) qui chế hai lĩnh vực công và tư về truyền thông, tồn tại song song với nhau. Điều này có nghĩa là trong hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới, các đài truyền hình tư nhân đã xuất hiện và phát triển một cách mạnh mẽ. Hiện tượng nói trên chỉ có tính qui luật vì Nhà nước đã tự giảm đi vai trò chủ đạo về truyền thông vào thời chiến tranh, nới nhẹ ra từ khi hòa bình tái lập và các điều kiện khách quan khác cho phép. Về phương diện kinh tế, tài nguyên để vận doanh truyền hình đến từ nhiều nguồn khác nhau. Trợ cấp trực tiếp của chính phủ hầu như trở thành một ngoại lệ, truyền hình chỉ sống bằng tiền đóng góp (redevance) được coi như một thứ thuế đánh vào khán thính giả, tiền quảng cáo, tiền bán chương trình cơ sở cho quảng cáo và tiền mướn đài của khán giả các đài mạng cáp và vệ tinh chủ đề. Để có một khái niệm rõ hơn, ta nên biết tiền đóng góp hàng năm của mỗi nóc gia vào năm 1997 ở Âu Châu được ấn định ở Đức là 176,01 Euro, ở Bỉ là 179,67 Euro, ở Pháp là 108,01 Euro, ở Ý 85,39 Euro. Qua đồ biểu sau đây, chúng ta có thể nhìn thấy biến chuyển của tỷ lệ giữa thu nhập về tiền đóng góp (hay “thuê”truyền hình) và huê lợi quảng cáo ở Pháp từ 1980 đến 1998 cho cùng một số đài..
Đồ biểu 5.2 : Tiến triển của t ỷ lệ thu nhập ti ền góp và huê lời quảng cáo ở Pháp trong thời kỳ 1980 -1998 (triệu quan Pháp)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 75/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1980 | 1985 | 1990 | 1995 | 1996 | 1997 | 1998 | ||||||||||
Tiền | 2766 | 5259 | 5767 | 8291 | 9074 | 9159 | 9545 | |||||||||
Đóng | ||||||||||||||||
Góp | ||||||||||||||||
Huê Lợi | 2127 | 2966 | 9046 | 13249 | 13792 | 14620 | 15299 | |||||||||
Quảng | ||||||||||||||||
Cáo | ||||||||||||||||
Xuất xứ: Francis Balle, Médias et Sociétés, Paris, 1999 (Tư liệu thường niên của SJTI)
Đi ều này cho ta thấy rõ là cách đây trên 20 nă m , tương quan giữa tiền đóng góp và huê lợ i đến từ qu ảng cáo ở Pháp là 1 đối 1 và ngày nay, tỉ lệ đó trở thành 1 đối 1,5. Chưa nói đến việc tiền đóng góp tăng lên 3,45 lần trong khi huê lợi quảng cáo tăng 7,19 lần.
Tóm lại, kể t ừ khi truyền hình xuất hiện, nó đã đoạt khách hàng của các môi thể cũ như báo chí, truyền thanh và ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội, kinh tế, chính trị và giáo dục khắp nơi.
CHƯƠNG SÁU
KHÁN THÍNH GIẢ
TRUYỀN HÌNH – NGƯỜI
TIÊU THỤ
(SPECTATORS- CONSUMERS)
Đối với người chủ quảng cáo và hãng quảng cáo, khán thính giả truyền hình phải là khán giả đích nhắ m, nói cách khác, khán giả có ích. Họ là đối tượng của những cuộc điều tra định tính và định lượng tiền quảng cáo (xem chương 7) và hậ u quảng cáo (xem ch ương 9).Trước khi đi vào lĩnh vực đó, thiết tưởng chúng ta cũng nên có một cái nhìn tổng quát để xem khán thính giả đó lá nh ững ai, thói quen xem truyền hình của họ như thế nào và họ xem truyền hình ra làm sao.
I. PHÂN TÍCH TẬP QUÁN XEM TRUYỀN HÌNH
Glick và Levy (1960, theo F. Balle) cho biết người xem truyền hình ở Mỹ có thể
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 76/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
chia 3 hạng tươ ng x ứng với 3 thái độ: ủng hộ truyền hình (television embraced), bài bác truyền hình (television protested) và thích ứng với truyền hình (television accommodated). Năm 1999, IPSOS (vẫn theo F. Balle) còn chia người xem truyền hình ở Pháp ra làm 9 loại, không phải muố n chi li nhưng ch ỉ muốn chứng tỏ rằng sở thích xem truy ền hình của con người trong xã hội Tây Phương đã phân cực hóa (loại tò mò, loạ i chuộng chủ đề, loại tổng quát, loại tin tức, loại phim ảnh,…). Đồng thời, dựa trên một tiêu chuẩn khác, ta cũng nhận thấy có ba loại người : loại “nghiện” truy ền hình (có 10% nhân số, xem ít nhất 7 tiếng đồng hồ mỗi ngày), loại “nhâm nhi truyền hình” (10% xem khoảng 1/2 tiếng) và phần những người còn lại.
Mộ t thống kê năm 1998 (F.Balle dẫn European Key Fact, I.P, Les Médias, trang 41) cho biết thời giờ xem truyền hình của một cá nhân như sau đây:
-Trên 4 tiếng đồng hồ mỗi ngày (240 phút): Ma-xê-đoan (262), Hung (246), Ét-tô-ni (245), Anh (241).
-Từ 3 tiếng (180 phút) đến 4 ti ếng : Mỹ (238), YÙ (230), Bi -e-lô-rút-xi (224), Bun-ga-ri (219), Hy lap (219), Tây ban nha (218), Lét-tô-ni (217), Nga (215), (Nam) Bỉ (209), Ba lan (206), Ru-ma-ni (204), Đức (201). Tiệp (198), Pháp (197), Ai-lan (197), U-kơ-ren (1979, Xư -lô-va-ki (185).
-Dưới 3 giờ (180 phút) : Cơ-roát-xi (179), Li-tu-a-ni (177), Đan-mạch (169), Hòa-lan (168) và (Bắc) Bỉ (167).
Sau đ ây là một cái nhìn đối chiếu giữa thời giờ sử dụng truyền hình và các môi thể ở Mỹ. Con số 1555 hàng năm chứng tỏ người Mỹ trung bình xem trên 4 giờ truyền hình mỗi ngày.
Đồ biểu 6.1: Thời gian sử dụng môi thể truyền thông hãng ở Mỹ của mỗi cá nhân (tính theo giờ/ một năm)
LOẠI MÔI THỂ | SỐ GIỜ/ CÁ NHÂN/ NAêM | |||
Truyền hình | 1555 | |||
Máy phát thanh | 1150 | |||
Đĩa, băng nhạc | 233 | |||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 77/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tạp chí cho giới tiêu thụ | 85 | |||
Phim video | 46 | |||
Điện ảnh | 9 | |||
Xuất xứ: Rotzoll và Haefner, Advertising in Contemporary Society, 1996, theo tài liệu thống kê Số Kiểm Tra Dân Số Hoa Kỳ, 1994 (Washington, 1994)
Francis Balle dẫn tư liệu của Nielsen Media Research (1997-1998) cho ta thấy
trong năm 1996, 98,2% nóc gia Mỹ trang bị một máy truyền hình, 73% trang bị
hai máy, 40% nóc gia trang bị 3 máy, 1% nóc gia trang bị ít nhất 7 máy, 95,9%
có nối mạng cáp, 65,3% mướn dài dây cáp (40% coi từng chương trình một
(Pay Per View ) mà thôi). Ngoài ra 86,1% có máy thu phát hình băng từ, 6,7%
mướn đài vệ tinh và 20% có máy đọc CD-ROM. Trong gia đình Mỹ, máy
truyền hình mở 7 giờ 20 phút mỗi ngày và đàn ông Mỹ xem 4 giờ mỗi ngày, đàn
bà Mỹ xem 4 giờ 28 phút.
Yokoyama (1996) báo cáo về thành quả nghiên cứu của Video Research và Nielsen Japan, cho ta biế t mỗi gia đình Nhật Bản xem khoảng 8 giờ 28 phút truyền hình mỗi ngày (thời gian từ 1993 đến 1994). Ở trình độ cá nhân, cũng cùng trong khoảng thờ i gian đó, người ta xem truy ền hình từ 3 giờ 38 đến 4 giờ15 phút. Sau đây là bảng phân chia thời gian trong 4 giờ 24 phút sử dụng môi thể truyền thông một người Nhật (theo một thống kê khác năm 1990) :
Đồ biểu 6.2: Phân chia 4 giờ 24 phút tiếp xúc môi thể nơi một người Nhật (1990)
Môi thể
Truyền Hình
Trên tổng số thời gian 4 giờ 24 phút
3,09
Video
0,05
Phát thanh
0,25
Đĩa nhạc, CD
0,09
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 78/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nhật báo
Tạp chí
Sách
Truyền bằng tranh (Manga)
0,20
0,03
0,12
0,01
Về thái độ xem phim của khán thính giả Nhật, nó biến đổi tùy theo tu ổi tác, tùy theo tình hình kinh tế và cách thức xem. Nói về tuổi tác, một thi ếu niên giữa 10 đế n 15 tuổi coi 4 giờ 25 phút truyền hình mỗ i ngày nhưng một cụ già 70 có thể xem đến 7 giờ 37 phút. Nói về công ă n việ c làm, người rao hàng xem 3 giờ 45 nhưng mộ t người thấ t nghiệp xem đến 8 giờ 10 phút. Lúc kinh tế hưng th ịnh, ng ười ta bận rộn nên xem ít đi so với lúc kinh tế suy thoái, nhân viên các hãng phải quay về nhà sớm hơn. Mùa hè, người ta ít xem truyền hình vì trời tốt, họ còn phải la cà ngoài tiệm quán hoặc trên đường phố.
Cách xem truyền hình cũng không đồng nhất vì trên 3 tiế ng đồng hồ, người ta chỉ xem chăm chú độ 1 giờ 39 phút tức là 55% số giờ. Họ vừa xem vừa làm chuyện khác cùng lúc suốt 1 giờ 21 phút tức trên 45% thời gian còn lại.
Đồ biểu 6.3: Thời dùng biểu một người Nhật giữa 1960-1980 và thời giờ dành cho truyền hình
1960 | 1965 | 1970 | 1975 | 1980 | ||||||||||||||
Chuyện tất | Ngủ | 8,12 | 8,05 | 7,57 | 7,52 | 7,52 | ||||||||||||
yếu hằng | Aên | 1,10 | 1,16 | 1,32 | 1,32 | 1,33 | ||||||||||||
ngày | ||||||||||||||||||
Vệ sinh | 0,26 | 0,39 | 0,59 | 1,06 | 1,02 | |||||||||||||
Công việc | Việc làm | 4,52 | 4,56 | 5,01 | 4,32 | 4,31 | ||||||||||||
Nhà cửa | 2,37 | 2,29 | 2,35 | 2,37 | 2,33 | |||||||||||||
Học tập | 2,02 | 1,56 | 1,25 | 1,29 | 1,27 | |||||||||||||
Đi lại | 0,32 | 0,44 | 0,42 | 0,47 | 0,54 | |||||||||||||
Tiêu khiển | Trò chuyện | 0,27 | 0,33 | 0,36 | 0,36 | 0,36 | ||||||||||||
Nghĩ | 1,02 | 0,53 | 0,34 | 0,40 | 0,39 | |||||||||||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 79/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Chơi | 0,33 | 0,32 | 0,31 | 0,35 | 0,37 | |||||||||
Đọc | 0,29 | 0,31 | 0,30 | 0,32 | 0,36 | |||||||||
Nghe ra-di- | 1,34 | 0,27 | 0,28 | 0,35 | 0,39 | |||||||||
o | 0,56 | 2,52 | 3,05 | 3,19 | 3,17 | |||||||||
Xem TV | ||||||||||||||
Xuất xứ: Ba mươi năm xem truyền hình (tư liệu Đài Truyền Hình NHK, 1983)
Diễn tiến củ a việc xem truyền hình tất nhiên thay đổi theo thời gian. Lúc truyền hình mới ra đời ở Nhật trong nhữ ng n ăm 1950, người ta xem truyền hình t ập thể vì số máy còn quá ít nên nhà hảo tâm Shoriki Matsutaro đặt nó ở đầu phố để đại chúng thưởng th ức các tiết mục tr ực tiếp truyền hình dã cầu (baseball) hay đô vật (sumotori) là những môn quốc kỹ của họ. Sau đ ó, lúc mọi người đã có cuộc số ng thoải mái hơn, truyền hình đ ã đi vào phòng khách mọi nhà. Hiện nay thì mỗi nhà đều có ít nh ất một đài màu (hoặc hai, hoặc ba, đặt ở phòng khách và các phòng ngủ). Số giờ xem truyền hình từ 56 phút (1960) đã lên đến 3 gi ờ 17 phút trong những năm 1980 và vượt qua ngưỡng cửa 4 gi ờ từ nh ững năm 1990. Người Nhật đã lấy th ời giờ ở đâu để đổ vào truyề n hình? Chúng ta thử xem con số sau đây của thống kê NHK trong năm 1983 để thấy rằ ng họ đã ngủ ít hơn, làm việc ít hơn và học hành ít hơn để dồn thời giờ vào truyền hình.
Sự phồn thị nh củ a truyền hình không những đo sự phát triển kỹ thuật mà còn do sự nới giãn trong qui chế nhà nước. Ở một quốc gia Tây Phương nh ư nước Pháp, h ầu như mọi nhà đều có máy truyền hình màu. Không những thế, tỷ lệ nóc gia trang bị nhiều máy cùng một lúc đã lên qua một phần ba.
Đồ biểu 6.4: Trang bị thính thị ở Pháp (điều tra trên 93,6% các nóc gia)
1993 | 1998 | ||||||
Trang bị truyền hình | 97,6% | 99,0% | |||||
màu | |||||||
Trang bị nhiều TV cùng | 31,7% | 37,3% | |||||
lúc | |||||||
Thiết bị điều khiển từ | 84,4% | 94,6% | |||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 80/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
xa
Trang bị máy sao hình
60,7% | 76,5% | |
Xuất xứ: Francis Balle, theo Médiamétrie 1998, trong Les Médias, Paris, 2000.
Đồ biểu 6.5: Độ phổ cập của các môi thể truyền thông ở Mỹ
Số nóc gia trang bị truyền hình
Số máy truyền hình trung bình ở mỗi nóc gia
Nóc gia mắc truyền hình dây cáp
Nóc gia có VCR (thâu phát băng từ)
Số nóc gia trang bị máy phát thanh
Số máy phát thanh trung bình mỗi nóc gia
98,3%
2,1
60,2%
75,0%
99,0%
5, 6
Xuất xứ: Rotzoll và Haefner, sách đã dẫn, theo tài liệu thống kê Số Kiểm Tra Dân Số Hoa Kỳ, 1994(Washington, 1994)
Mở truyền hình ra, khán thính giả xem được gì? Dĩ nhiên họ xem được những
chương trình… người ta trình bày cho họ xem (trước khi truyền hình dây cáp với
những kênh có chủ đề mà khách hàng có quyền lựa chọn theo sở thích ra đời
).Việc nghiên cứu về chương trình truyền hình rất quan trọng vì chúng ta biết
rằng ngoài việc phóng những phim quảng cáo độc lập, các chủ quảng cáo còn
“cung cấp” (sponsoring) những chương trình tiêu khiển như một công cụ để
đính kèm theo thương điệp quảng cáo ( hai loại hình quảng cáo này sẽ được bàn
rộng hơn ở chương 10 của quyển sách khi nói đến Những Hình Thức Sử Dụng
và Khai Thác Phim Quảng Cáo).
Sau đây là nộ i dung và tỷ lệ của các th ể loại chương trình truyền hình được phát sóng tại Pháp trong năm 1998 (tài liệu của Mediamat- Mediametrie, dẫn bởi Francis Balle). Trong đó, quảng cáo chiếm 7,5% chương trình được cung c ấp và ng ược lại, khán thính giả đã dành 9,5% thời gian xem truyền hình của họ để xem phim quảng cáo (nên nhớ rằng khán thính giả có thể tắt máy, đổi đài
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 81/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hay làm việc khác để tránh xem quảng cáo).
Đồ biểu 6.6: Cung cấp và tiêu thụ chương trình truyền hình ở Pháp.
( của 6 đài : TF1, France 2, France 3, Arte, La Cinq và M6)
5,5% | Phim | 8,4% | ||||
21,9% | Phim truyền hình | 25,9% | ||||
4,8% | Trò chơi | 8,2% | ||||
9,1% | Tạp hý (Varieties) | 5,1% | ||||
5,7% | Thời sự, truyền hình | 14,4% | ||||
4,2% | Điều tra, tư liệu | 6.8% | ||||
7,8% | Thể thao | 3,0% | ||||
7,5% | Chương trình giới trẻ | 9,5% | ||||
6,5% | Quảng cáo | 4,3% | ||||
Các loại khác | ||||||
Chương trình được cung cấp Chương trình được tiệu thu 100% = 41988,55 giờ 100% = 1051,50 giờ Xuất xứ: Francis Balle, Médias et Sociétés, Paris, 1999
Riêng về chương trình truyền hình được cung cấp trên truyền hình Nhật Bản và cách thức tiêu thụ nó đã được Inada (1994) trình bày như sau:
Đồ biểu 6.7: Nội dung chương trình truyền hình Nhật Bả n (đài quốc lập NHK) và các đài tư nhân (Minpo) từ 1987 đến 1991
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 82/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Năm | Đài | Tin Tức | Giáo Dục, | Giải Trí, | Các loại | |||||||
Kiến Thức | Thể thao, | khác | ||||||||||
Âm Nhạc | ||||||||||||
1987 | NHK | 42,7% | 37,3% | 20,0% | 1,7% | |||||||
Tư nhân | 17,3% | 36,2% | 44,8% | |||||||||
1988 | NHK | 47,3% | 34,8% | 17,9% | ||||||||
Tư nhân | 17,8% | 36,2% | 44,2%1 | |||||||||
1989 | NHK | 45,6% | 33,6% | 20,8% | 1,8% | |||||||
Tư nhân | 18,5% | 36,3% | 43,4% | |||||||||
1990 | NHK | 46,9% | 33,1% | 20,0% | 2,0% | |||||||
Tư nhân | 19,0% | 36,2% | 42,8% | |||||||||
1991 | NHK | 45,8% | 34,8% | 19,4% | 2,1% | |||||||
Tư nhân | 19,4% | 37,0% | 41,5% | |||||||||
Xuất xứ: Inada Taneteru, Hoso Media Nyumon, Tokyo, 1994.
Nhìn chung, đài quốc lập NHK có sứ mạng giáo dục quần chúng trong khi các đài tư nhân nghiêng về giải trí, tiêu khiển. Đố i với nội dung của hai loại chương trình này, Video Research qua những điều tra giữa 1975 và 1994 cho biết khán thính giả đã có những sở thích như sau:
Loại chương trình khán thính giả theo dõi nhiều nhất là khí tượng (59,3% trong
năm 1994) và thời sự (52,2% cùng năm), sau mới đến thể thao (46,4%), phim
ảnh ngoại quốc (44,7%). Người Nhật thích xem khí tượng vì quốc gia của họ
nằm trong vùng địa chấn và thời tiết thay đổi liên tục. Hơn nữa chương trình khí
tượng thường lồng khung trong một chương trình du lịch và giải trí “trá hình”.
Phim truyện truyền hình (36,8%) được yêu thích hơn các loại trò chơi (27,6%)
và điều tra và tư liệu (27,2%). Video Research cũng cho biết người Nhật xem
phim để tiêu khiển ( 53% dến 72% số người được phỏng vấn) hơn là để hiểu
biết(18% đến 31% còn lại) một điều cũng dễ hiểu. Tuy nhiên, gần đây, loại
người nhắm tiêu khiển đã sút đi (72% năm 1975, chỉ còn 62% năm 1994) trong
khi loại người muốn học hỏi dần dần tăng gia ( 18% năm 1975, 28% năm
1994).
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 83/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Ý NGHĨA CỦA TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY
Khi đã chọn truyền hình làm môi thể truyền đạt , quảng cáo truyền hình bắ t buộc phải mang những đặc tính của môi thể cư u mang nó. Chúng ta có thể ghi nhận những đặc tính xã h ội sau đây của truy ền hình (có liên quan gầ n xa với hiệu năng của quảng cáo mà ta s ẽ nhắc lại ở chương 16 ) mà hai nhà xã hội họ c Gaunlett và Hill (Gaunlett, D & Hill, Annette, 1999), chuyên viên nghiên cứu của Viện Phim Ảnh Anh Quốc (Britisf Film Institute) nêu ra:
- Hành động xem truyền hình ít khi là một hành động đơn lẻ của một cá nhân (individual viewer). Nó có tính cách gia đình hay tập đoàn ( theo Morley, 1992 trong Gaunlette và Hill). Ở Nhật Bản chẳng hạn, 95% máy truyền hình chính (main TV) được đặt trong phòng khách (cha no ma) và cũng là nơi tụ họp của gia đình và máy truyền hình phụ (sub TV, 61% gia đình Nhật có hai máy) đặt ở một phòng khác trong nhà.
- Xem truyền hình , có lối xem chăm chú và lối xem lơi là vì bận tay làm một việc khác. YÙ kiến của Gaunlette và Hill nghiệm ra cũng đúng khi đặt vào bối cảnh Nhật Bản. Theo con số của NHK (1992), ở Nhật Bản , cứ 3 tiếng đồng hồ xem truyền hình, người ta chỉ chăm chú được độ 1 tiếng 39 phút nghĩa là 55% số thời giờ xem.Trong 1 giờ 21 phút nghĩa là 45% số thời gian còn lại, người ta có thể dùng bữa (32 phút), làm bếp (9 phút), trò chuyện (8 phút), lo chuyện riêng tư (6 phút), đọc báo (6 phút), học hành làm việc (4 phút) và giặt giũ (4 phút).
2)Chương trình truyền hình được nghiên cứu để sắp xế p theo thời khóabiểu thường nhất của người xem ( ví dụ phim tình cả m ướt át (soap opera) chiếu buổi trưa lúc các bà nội trợ làm cơm)( ý kiến của Hobson).
3)Truyền hình có thể sử d ụng với hai hiệu n ăng của nó: hiệu năng môi tr ường (một th ứ đồ ng hồ gõ nhịp cho cuộc sống của ta) và hiệu năng liên lạc (nó giúp ta giao cảm với người chung quanh qua đề tài của những ch ương trình trên đ ài, nó giúp ta theo dõi tình hình xã hội và dạy ta cách thức giải quyết vấn đề) (J.
Lull, 1990).Tuy nhiên, quá mê mãi xem truyền hình có thể đưa tới sự thiếu đối thoại trong gia đình.
- Truyền hình được xem như là một dụng cụ trong nhà, như bàn tủ giường ghế, gắn liền với cuộc sống của ta. Nó vừa giúp ta thư giản sau khi làm việc mệt nhọc nhưng cũng có thể làm người ta nghiện nó và sự lạm dụng này sẽ khiến người ta vừa có mặc cảm tội lỗi, vừa thụ động, mệt mõi, không còn biết đối phó với thế giới bên ngoài (Himmelweit, 1958, Halloran, 1970, dẫn bởi Gaunlette và Hill)
- Truyền hình làm cho ta tưởng những gì mình thấy trên màn ảnh cũng là sự thực ngoài đời (Gerbner. 1980,1986, Morgan và Signorielli, 1990).
Lập luận này không những quan trọng đối với quảng cáo (xem thêm chương 16) nhưng còn giải thích những hiệu quả phản giáo dục của nó.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 84/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- THÁI ĐỘ CỦA KHÁN THÍNH GIẢ TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI QUẢNG CÁO
Ta th ấy truyền hình trướ c tiên cũng như mọi môi thể truyền thông, thỏa mãn được nhu cầu hiểu biết của con người, trong đó có sự am t ườ ng về thời sự. Am tường về những diễn biến hàng ngày vì truyền hình là cuốn sổ tay giúp ta có nh ững ki ến th ức cần thiết để sống trơ n tru với người chung quanh. Vai trò của nó giống như vai trò nhật báo và còn ph ục v ụ nhanh chống hơn. Bernard Berelson (d ẫn bởi Francis Balle) đ ã báo cào về hậu qu ả mộ t cuộc đình công củ a báo chí cho biết khi không có báo chí, con người cả m thấy như có sự đứt đoạn trong mối giao cảm với người chung quanh.Truyền hình còn thoả mãn nhu cầu tiêu khiển dù do nhiều khi chỉ là thú vui đượ c nghe lời đàm tiế u (gossip) chung quanh một nhân v ật nổi tiếng.Truyền hình là n ơi diễn ra những lời thú tội trước công chúng (theo Dominique Mehl, 1995), nó còn đem đến cho người xem những gi ải pháp cho những khó khăn trong cuộc sống (theo Katz et Lazarfeld, 1955) và dễ thoát ra cảnh tù túng hay cô lập (theo Marvin E. Olsen, 1960).
Như đã nói, người Nhật phần lớn coi trọng vai trò tiêu khiển của truyền hình. Họ
coi truyền hình như một sân khấu (50%). Tuy nhiên 41% xem nó như một thời
khoá biểu giúp tổ chức cuộc sống, 37% xem nó như một cái đồng hồ. Đối với
31% nó có thể làm bạn đồng hành với người già, em bé, 24% coi nó như một sân
vận động, 23% như một người bạn chơi, 17% như một chiếc máy để nghe nhạc,
14% như ông giáo dạy kèm, 13% như quyển từ điển bách khoa, 12% như một
quầy kính bày hàng và 10% như quyển tiểu thuyết.Trẻ con khi chưa biết gì
thường xem theo bố mẹ nhưng khi lớn hơn một chút, chúng nó có chương trình
riêng của mình.
Toàn thể khán thính giả truyền hình chưa hẳn là đối tượng của người quảng cáo khi ta lý luậ n trên quan điể m tế phân thị trường (market segmentation) và quần chúng đích nhắm (target). Tuy nhiên khán thính giả nếu không thuộc vào một t ế phân này thì cũng thuộ c vào một tế phân khác nên thái độ của họ đối với quảng cáo truyền hình là một điều mà các nhà quảng cáo bắt buộc phải quan tâm.Trong một điều tra thực hiện vào năm 1972, nhà nghiên c ứu Nhật Bản Shibuya đã chia thái độ của khán thính giả nước ông đối với quảng cáo truy ền hình ra làm năm loại: loại chấp nhận, loại chống báng, loại nghi ngờ, loại phê phán, và loại dửng dưng
Shibuya đã nghiên cứu về thái độ của các nhóm người nói trên theo ba tiêu chuẩn:
- Trình độ chú ý : nhìn =a; lơ đãng =b
- Trình độ tuyển chọn: thích = a?; ghét= b?
- Trình độ tin cậy: tin =a”; nghi ngờ= b”
Năm thái độ ấy có thể tóm tắt trong công thức sau:
– Loại chấp nhận: a+a?+a”
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 85/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Loại chống báng: b+b?+b”
- Loại nghi ngờ: a+b?+b”
- Loại phê phán: a+a?+b”
- Loại dửng dưng: ………..
Trước một số câu hỏi mà Shibuya đặt ra như:
- Quảng cáo có phải là chủ đề của các cuộc đàm thoại hay không?
- Có thích xem quảng cáo không ?
- Có bao giờ bạn huýt sáo một điệu nhạc quảng cáo không?
- Có bao giờ bạn xem quảng cáo không?
Kết quả là ngoài những câu trả lời mà ta có thể đ oán trước được, ta ngạc nhiên khi thấy những ngườ i dửng dưng hoặc hoài nghi quảng cáo đều nhìn nhận là dù họ muốn hay không, quảng cáo đã ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Như thế , rõ ràng là quảng cáo “bao vây” con người và vô tình lẫn c ố ý, chi phối khuôn mẫu hành động của họ . Do đó ngay cả những người nghi ngờ sự thành thực củ a thương điệp cũng phải bảo rằng nó làm cho cuộc sống có thêm sinh khí.Trước những câu hỏi như sau:
- Một ngày bạn xem quảng cáo bao nhiêu lâu?
- Quảng cáo có tính nghệ thuật không?
- Quảng cáo ảnh hưởng đến phong tục tập quán không?
- Quảng cáo thực sự chỉ có khía cạnh thương mại thôi sao?
Thì ngay người chống báng quảng cáo cũng nhìn nhận phải bó tay trước ảnh
hưởng sâu rộng của nó trong môi sinh hoạt xã hội. Và theo Yamada (sđd),
những kẻ có thiện cảm với quảng cáo truyền hình chính là những người dẫn đầu
dư luận (opinion leader) , sẵn sàng cổ võ cho món hàng mà chính cá nhân anh ta
có thể là một trong những người tìm mua nó trước tiên.
CHƯƠNG BẢY
ĐIỀU TRA CHUẨN BỊ QUẢNG CÁO TRUYỀN
HÌNH
(TELEVISION ADVERTISING PRE-RESEARCH)
Quảng cáo là một ngành chuyên môn mà tính khoa học vẫn chưa được chứ ng minh một cách rõ ràng.Tuy nhiên, ngành quảng cáo luôn luôn tìm cách tiếp cận
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 86/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
với những phương pháp khoa học để công việc của mình ngày càng tăng hiệu năng.Có hai câu hỏi luôn luôn nằm trong đầu người quảng cáo. Câu hỏi thứ nhất: những ai là ng ười để mắt tới lời rao hàng của mình? Câu hỏ i thứ hai: lối rao củ a mình sẽ đạt được những hiệu quả cụ thể gì ? Nói khác đi, mụ c đích của qu ảng cáo là để thông tin nh ưng thông tin đó phải đưa tới hành động mua hàng và nếu hàng bán được nhi ều thì càng tố t. Russell H. Colley (dẫn bởi Kajiyama, 1996) từ năm 1961, đã đề ra lối ” Ti ếp Cận 6M “ (6 M approach) để định mẫu mực cho người quảng cáo khi thiết lập mục tiêu quảng cáo và đo lường hiệu quả của chiến dịch quảng cáo :
- Merchandise (thương phẩm): sản phẩm bán ra có đặc tính gì ?
- Markets (thị trường): ai là người mua hàng?
2) Motives (động cơ) : người ta mua hàng vì cớ gì ?
- Messages (thương điệp) : phải thông báo cho họ tin tức gì ?
- Media ( môi thể) : sử dụng môi thể nào để thông tin ?
- Measurements (đo lường):kiểm tra hiệu quả quảng cáo bằng cách nào?
Nói cách khác, người quảng cáo phải thăm dò thị trường để biết khách hàng là những ai và hiểu rõ những chờ đợi (c ầu) củ a thị trường đối với món hàng củ a mình sẽ được bán ra. Thị trường có th ể là thị trường đạ i chúng (mass) bao la nh ưng cũng có thể là thị trường tế phân (segments) gồm những nhóm khách hàng nhỏ được phân chia theo nhi ều tiêu chuẩ n khác nhau tùy theo họ là một nhóm người nhắm một thứ lợi ích giống nhau (benefit segmentation) , thuộc cùng một tầng lớp xã hội, tuổi tác ( demographic segmentation) hay chia xẻ một lối sống giống nhau (lifestyle segmentation)… Sự tế phân thị trường giúp ta tìm ra đích nhắ m (target) cho món hàng nhưng người làm quảng cáo cũng có thể lựa chọn giữa cách tiếp thị đáp ứng với từng tế phân thị trường một (single segment marketing) hay chọn cách tiếp thị đồng loạt với nhiều tế phân cùng lúc (multisegment marketing)..
Dĩ nhiên ta cũng phải biết đối thủ (competitor) của ta trên thương trườ ng là ai và món hàng họ bán khác ta như thế nào. Khi đi ều tra thị trường, ta có thể đi ều tra qua tư liệu thống kê (desk research) hay qua kết quả những cuộ c thăm dò dư luận (field research). Ngoài ra trong loại sau này còn phải k ể thêm những cuộc điều tra thực nghiệm nh ư mời khách hàng dùng thử để xem phản ứng và ý kiến của khách hàng đối với một món hàng được đưa ra (cung).
Sau đ ó ng ười quảng cáo phải biết những động cơ tâm lý và phản tâm lý, thái độ và mô thức hành động của khách hàng, sự trung thành củ a họ đối với mộ t nhãn hiệu, để xem khái niệm quảng cáo nào ăn khách nhất có thể làm chủ trụ cho chi ến dịch quảng cáo. Những kỹ thuật nghiên cứu về tâm lý khách hàng thường được kể tới là kỹ thuật nghiên cứu theo bậc thang ngữ vị (semantic differential), nghiên cứu độ tươ ng quan giữa những yếu tố (factor analysis) hay nghiên cứu định vị trí hình ảnh một mặt hàng (brand mapping) trên một mặt phẳng với những trục tung hoành biểu diễn các giá trị cơ bản của món hàng.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 87/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ng ười quảng cáo phải hiểu rõ về…món hàng của mình trong tương quan củ a nó với thị trường, hiểu theo nghĩa rộ ng (đại chúng) và theo nghĩa hẹp (quần chúng đích nhắm).Ngườ i quảng cáo phải định v ị trí (positioning) món hàng mình bán đối với những món hàng khác….Hàng của mình là một món hàng
đồng loạt (parity product) để bán cho một thị trường đồng chất (homogeonous market) hay một món hàng đ ã được cá biệt hóa (differentiated product). Món hàng của mình sẽ đem lại lợi lộc gì cho khách ? Thử lấ y ví dụ của Ph. Kotler đưa ra, trong lãnh v ực xe du lịch chẳng hạn, Mercedes có thể là sang nhất nhưng BMW lại dễ lái hơn cả, Hyundai giá rẻ nhất và Volvo an toàn nhất. Ngoài việc định vị trí món hàng theo lợi ích số một (major benefit) của nó, ta còn có thể xét đến ưu đ iểm thứ hai (second benefit) (Volvo không những an toàn mà còn bền) và cả ưu đ iểm thứ ba (triple benefit). Kem đánh răng Aqua-Fresh có cả 3 lợi ích: vừa trị sâu răng, vừa làm hơ i th ở thơm tho vừ a làm trắng răng, chẳng hạn. Ngoài định vị trí trên quan đi ểm l ợi ích, ta còn có thể định vị trí món hàng đối với các món hàng cạnh tranh trên nhiều quan điểm khác (xem Kotler, sdd).
Một khi đã định nghĩa được ưu khuyết điểm món hàng của mình rồi thì mới biết được những lý lẽ (arguments) và hứa hẹn (promises) đến khách hàng nằm trong đ ích nhắm . Nế u không thiế t lậ p những mục đích quảng cáo (advertising goals) từ đầu thì tất nhiên về sau không tài nào kiểm điểm được mình đã đạt được mục tiêu chưa.
Định nghĩa được vị trí của món hàng mình bán ra trong muôn ngàn món hàng
trên thị trường và nhận diện được những người có tiềm năng tiêu thụ hàng
mình thì người quảng cáo mới có cơ sở để tạo ra bài bản quảng cáo (copy
strategy). Bài bản này phải gồm một lời hứa hẹn, một thực chứng có tính cách
thuyết phục là sẽ thực hiện lời hứa ấy, một giây liên hệ tạo ra giữa người bán
hàng và quần chúng nhắm tới và một bầu không khí thuận lợi để luận điệu
của người bán hàng được nghe theo. Sau đó, phải tìm ra một hay nhiều môi thể
truyền thông (trường hợp media mix) có thể giúp mình đạt được mục đích. Đó
là giai đoạn thiết lập kế hoạch môi thể (media planning). Dĩ nhiên, ngân
khoản chi tiêu là một yếu tố quyết định trong việc thiết lập kế hoạch này.
Đi ều tra về th ị trường và tâm lý khách hàng cần được bổ sung bởi những điều ra đặ c biệt về môi thể truyền hình để biết thói quen sử dụng truyền hình của khán thính giả. Nó gồm hai phương pháp: định lượng và định tính :
I. ĐIỀU TRA ĐỊNH LƯỢNG
Điều tra định lượng khó một phần vì ta có thể biết con số máy truyền hình bán
ra nhưng không biết hoàn cảnh chúng được sử dụng nhất là ở một thời điểm
nào đó trong ngày. Có nhà không có máy nào cả, có nhà có hai, ba máy
vv…Phương pháp thường dùng là đặt một máy ghi thời gian sử dụng trên máy,
mỗi lần mở hay tắt máy sẽ được ghi lại và thâu thập bởi một cơ quan điều tra
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 88/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
địa phương.
Vì không thể điều tra hoạt động của mỗi máy cho nên chỉ chọn ra một số mẫu (sampling) để theo dõi. Những hình thức thường được sử dụng có thể kể ra như sau:
1) Ký lục thường nhật (Diary)
Cá nhân hay thành viên của một gia đình ghi chú cặn kẽ ngày giờ xem truy ền hình của mình. Phương pháp này ít đượ c tin cậy vì người ghi chú có thể sơ sót hay buông thả do mệt mõi sau một thời gian.
2) Điện thoại đồng loạt (Coincidental Telephone)
Khi chương trình bắ t đầu, điện thoại cùng lúc đến mọi người trong những gia đình được chọn làm mẫu điều tra. Lời điều tra này nếu gặp lúc k ẹt điện thoại thì kết quả sẽ thiếu chính xác, đó là chưa chắc khán thính giả đã thực thà trình bày.
3) Cơ khí (Mechanical)
Máy đo tự động Audimeter của hãng AC Nielson là ví dụ nổi tiế ng của loại máy đo bằng dòng điện này. Có thể đặt đến 4 máy trong một gia đình, băng thâu giờ giấ c sử dụng truyền hình sẽ được thu thập mỗi cuối tu ần bởi ng ười của Nielsen. Có một ít giới h ạn như máy có thể bị hỏ ng, băng thâu có thể bị lạc nhưng vẫn được coi như là phương pháp tốt nhất để tránh cảnh quên trước quên sau hay sự thiếu nhiệt tình trong việc ghi chú.
4) Gợi nhớ (Roster Recall)
Cách này đối chiếu thời dụng biểu của chương trình truyền hình với trí nhớ của
người xem. Cách điều tra thứ tư này khác ba cách trên nghĩa là không đồng
thời nhưng xảy ra sau khi chương trình truyền hình đã chấm dứt. Cách điều tra
này dễ phạm nhiều sai lầm vì trí nhớ con người vốn không chắc chắn.
Đặt câu hỏi: Bao nhiêu người xem và nghe lời rao hàng của mình? Có nghĩa là
muốn biết tỷ lệ thính thị (rating) hay tỉ suất số máy mở ra dễ xem một chương
trình đối với tổng số số máy theo dõi. Ngoài ra tỷ lệ phân bố khán giả(share
of audience) là tỉ suất số máy mở ra để xem chương trình này so sánh với số
máy mở ra để xem một chương trình khác. Tỷ lệ khán giả giúp cho người
quảng cáo xác định tính chất một tiết mục chương trình, ví dụ chương trình
dành cho các bà nội trợ, cho lớp trẻ…để đánh giá mục tiêu khách hàng mà chủ
quảng cáo muốn tiếp cận. Chủ quảng cáo luôn luôn muốn tìm hiểu thành phần
khán thính giả một chương trình vì sau lưng người xem chương trình có một
khách hàng chực sẵn. Ví dụ một món hàng nhắm bán cho nam giới ít khi
truyền vào ban ngày trong tuần vì lúc đó, người xem truyền hình chỉ toàn là nữ
giới.
Đo tỉ suất người xem cũng là để biết độ lưu động (mobility) của khán thính giả. Khác v ới thính gi ả truyền thanh, người xem truyền hình hay đổi đài chứ không nhất thiết xem mãi mãi một chương trình. Ngoài ra, nhờ sự đo tỉ suất mà
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 89/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
chủ quảng cáo còn biết được độ trùng phức (duplication) hay độ lũy kế (accumulation) của khán thính giả dối với mộ t chươ ng trình. Có người mớ i xem một chương trình lầ n đầu, có người xem nhiều lần (trùng phức) và có người xem chươ ng trình do một hãng duy nhất trình bày, kẻ khác lại xem chương trình do nhiều qu ảng cáo chủ đưa ra cùng một lúc (lũ y kế), và do đó, độ thẩm thấu của thương điệp vào môi trường khán thính giả sẽ không giống nhau.
II. ĐIỀU TRA PHẨM CHẤT
Điều tra về phẩm chất có nghĩ a là tìm cách trả lời câu hỏi : Chương trình truy ền hình (television program) hay thông báo thương mại (commercial announce) sẽ mang lại cho người xem những gì ?
Đo lường về phẩm chất trước tiên xem khán thính giả có quan tâm, có chú ý
tới chương trình truyền hình hay thông báo thương mại hay không. Nếu người
xem hoàn toàn không để ý thì ta có thể xem như cố gắng của chủ quảng cáo
hầu như vô bổ. Bảo là ” hầu như ” vì cho dù người xem không quan tâm đến
thông báo, họ cũng cảm nhận thông báo lúc nào không biết. Còn trong trường
hợp họ có quan tâm thì người điều tra phải biết họ quan tâm tới mức độ nào.
Phải tiến hành điều tra trước, giữa và sau khi người xem tiếp nhận thông báo
để đánh giá phản ứng của họ. Điều tra thường dùng phương thức phỏng vấn
hướng dẫn (directive interview). Qua câu hỏi và trả lời, người điều tra còn biết
được khán giả có tin tưởng vào nội dung thông báo, có cảm tình tốt đẹp với
thông báo hay không và lưu giữ trong ký ức những ấn tượng nào. Hãng Gilbert
Youth Research đã dùng một loại máy gọi là Video-meter (có thể chỉ hoặc phát
hình ảnh hoặc phát âm thanh mà thôi) để xem khán giả còn giữ được trong đầu
những yếu tố nào.
Những hình thức điều tra này giúp cho người chuẩn bị chế tác chương trình
hay thông báo quảng cáo rất nhiều vì nó cho họ biết người xem yêu ghét những
điều gì và lưu giữ trong trí nhớ được bao nhiêu. Nhưng từ việc giữ được một số
ấn tượng về điểm ưu việt nào đó của thương phẩm (selling points) đến việc bỏ
tiền ra mua nó là hai điều chưa hẳn đi đôi với nhau. Vì vậy trong các hình thức
quảng cáo, có hình thức nhắc nhở đến thương phẩm, có hình thức chỉ nhằm
tạo một bầu không khí thoải mái, dễ chịu bao quanh thương phẩm nhằm mục
đích ” nuôi nấng ” cái ước muốn chiếm hữu nó nơi khách hàng. Khi nói đến
ước muốn tức là nói đến tiềm thức của người mua. Để thám thính chiều sâu của
tâm lý người tiêu thụ, nhà điều tra phải dùng lối phỏng vấn chiềusâu tâm lý
(depth interview) hay phỏng vấn tự do (non-directive interview) nghĩa là để
mặc giòng liên tưởng khách hàng làm việc một cách không câu thúc.Bởi vì
theo Ernest Dichter, khi chỉ lo phân tích từng điểm nhỏ, nhiều khi ta lại bỏ sót
không khí toàn thể mà người xem cảm nhận từ thông báo thương mại.Có khi
khách hàng chỉ thích một điểm nào đó ở thương phẩm, nhiều khi thích thương
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 90/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phẩm mà không thích người sản xuất. Cảm giác chung vẫn là điề u quan trọng hơn cả vì nó sẽ dẫn dắt tới hành động. Ngoài điều tra có tính cách tâm lý học (quá trình 4 giai đo ạn : hành động / thấ t bại / kiểm thảo / tái hành động = trial and error), điều tra có tính cách tâm lý bệnh lý học (psychopathology) cũ ng r ất cần thiết vì thế gi ới của ý thức nhiề u khi b ị vô thức chỉ huy và những đòi hỏi từ vô thức ló đầu ra lại bị ý thức kiểm duyệt, gạt b ỏ. Có phương pháp thự c nghiêm dùng thuật thôi miên (hypnose) để xem người mua trong trạng thái bình thường và dưới ảnh hưởng của thôi miên sẽ trả lời những câu hỏi như thế nào.
III. ĐIỀU TRA QUA THỰC TẾ BÁN HÀNG
Không có gì chứng t ỏ cho chủ quảng cáo về hiệu năng c ủa thông báo qu ảng cáo hơn là số doanh thu. Thự c tế cho biết rất khó chứng minh được món hàng bán được nhiều hay không là nhờ ở quả ng cáo. Khi nhận đơn đặt hàng qua điện thoại (lối bán hàng qua đườ ng giây bưu điện (mail order) hoặc điện tho ại (telephone order)) ta có thể biết động cơ nào đã thúc đẩy người mua và vai trò của quảng cáo trong sự thúc đẩ y đ ó.Tuy nhiên, không phải ai ai cũng vì thấy hàng d ược quảng cáo mà mua. Có người nghe người khác nói lại (hình thức quảng cáo truyền miệng), có người nhằm dịp bán phá giá rủ nhau đi mua.
Một hình thức khác là quảng cáo ở một đô thị nhất định nào đó (test cities) và đem so sánh kết quả thu l ượm được với những đô thị không tiến hành quảng cáo (control cities). Hoặc gi ả, lấy một đô thị làm tiêu đ iểm và tiến hành ba cuộ c điều tra: trướ c, trong khi và sau khi quảng cáo, để xem kết quả điều tra vào ba thời đ iểm đó khác nhau như th ế nào.Tuy nhiên, lúc so sánh, ngườ i đ iều tra cần chú ý vào những biến số (theo Frank R. Coutant (dẫn b ởi Agnew và O?Brien) nó có đến 150, tỷ dụ: khí hậ u, trình độ phổ cấ p của báo chí, sức hoạt động của các hãng cạnh tranh, sự tích cực của giới bán hàng, dân số, sức mua của người tiêu thụ…)
IV. QUI TẮC TỐI THIỂU LÚC ĐIỀU TRA
Lúc, điều tra, ta có thể gặp phải 3 trở ngại : phương pháp điều tra không thích hợp, từ ngữ sử dụng để đặt câu hỏi quá chuyên môn, k ết luận thiếu tính cách khoa h ọc. Cho nên qui chuẩn cho những cuộc điều tra dư luận trong ngành tiếp thị (do Advertising Research Foundation đề nghị) thường biểu hiện qua những câu hỏi sau đây:
- Điều tra được xúc tiến trong những điều kiện như thế nào?
- Những câu hỏi đặt ra đã được xem đi xem lại nhuần nhuyễn chưa?
- Phỏng vấn có tiến hành trong những điều kiện thỏa đáng hay không?
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 91/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Phương pháp chọn mẫu phỏng vấn (Sampling Method) có phải phương pháp tốt nhất không?
- Việc lấy mẫu (Sampling) có làm đến nơi đến chốn không?
- Mẫu phỏng vấn có đầy đủ không?
- Công việc thâu lượm tin, đánh số ký hiệu, tính toán có được tổ chức kỹ lưỡng không?
- Phân tích kết quả giải đáp có hợp luận lý không?.
Sỡ dĩ chúng ta bàn đến điều tra trước khi nói đến nội dung công việc quảng cáo vì đi ều tra có thể thực hiện ở ba giai đoạn: trước, trong và sau khi quảng cáo. Đặc biệt trong trường h ợp điều tra giữa khi quảng cáo, ta có thể sử dụ ng các loạ i máy như Audilog (theo dõi và ghi nhận mỗi ngày), Recordimeter (tập kế tin tức
- một địa phương chỉ định) và Audimeter, loại máy phổ quát hơn cả. Điện thoại đồng loạt (Coincidental telephone) vừa nhanh, vừa rẻ cũng thường được dùng. Qua phần điều tra phẩm chất, ngoài việc tụ hợp khán giả ở một nơi nào như phim trường, cho xem phim để họ ghi nhớ rồi đặt câu hỏi, sau đó, họ sẽ trả lời bằng cách bấm nút. Ta còn có thể dùng phương pháp phỏng vấn để họ tự dọ bày tỏ ý kiến để biết được những lý do thầm kín chi phối hành động của khán giả hơn.
CHƯƠNG TÁM
CÁC HÌNH THỨC QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
Sau khi người cậy quảng cáo (chủ quảng cáo) đã bằng lòng về một đài hay mạng truyền hình nào rồi, người ấy bắt đằu nghĩ đến hình thức quảng cáo có hiệu quả nhất so với ngân khoản dự chi của mình.
Nên quảng cáo mặt hàng hay quảng cáo tên tuổi ?
Chúng ta biết rằng có hai loại quả ng cáo: quảng cáo công dụng để giới thi ệu hiệu năng của một thương phẩm ( mới ra lò hay trở lại thị trường sau một thời gian vắng bóng tùy theo giai đoạn nào trong chu kỳ phát triển (PLC = Product Life Cycle) của thương phẩm đó) và lối quảng cáo tô bồi hình ảnh (Image) hay để nâng cao uy tín và danh tiếng (Notoriety) cho hãng nói chung.
Lố i quảng cáo thứ nhất dựa trên định đề là thương phẩm cũng như con ngườ i có sinh, lão, bệnh, tử và …đ i đầu thai kiếp khác. Lúc đầu thương ph ẩm được tung ra thị tr ườ ng (thời kỳ A trong đồ biểu), được phát triển (thời kỳ B), trải qua mộ t thờ i kỳ toàn thịnh (th ời kỳ C), sau đó th ị trường bão hòa thì nó cũng bắt đầu suy thoái (thời Kỳ D). Điều đó không có nghĩa là nó sẽ gục chết. Các
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 92/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nhà tiếp thị sẽ đem nó xuấ t khẩu qua một quốc gia hay khu vực khác mà người ta mới bắt đầu biết tới nó. Như thế, nó bước vào chu kỳ phát triển quố c tế của thương phẩm (IPLC hay International Product Life Cycle) và đ iều đó không ngăn cản nó trở về l ại nơi cha sinh mẹ đẻ khi được nhập cảng ngược trở lại (Reverse Importing) và tái sinh (Revival) trên thị trường.
Chu kỳ phát triể n (quốc tế ). Thương phẩm suy thoái (thời kỳ D ở nước X, Y) được chuyể n qua thị trườ ng kế tiếp (thời kỳ A ở nườ c Y, Z). Trongthời đại kinh doanh toàn cầu (mô hình thác nước (waterfall) như hình vẽ trên nhìn theo chiều ngang) có thể được thay thế bằ ng mô hình vòi sen (shower) , theo đó, một mặ t hàng được tung ra và toả ra theo hình nón đồng thời ở cả ba thị trường X,Y,Z.
Lúc mới được tung ra thị trường, thương phẩm cầ n được giới thiệu ồ ạt nhất là khi nó ph ải đương đầu với các đối thủ, nhưng sau đó nó chỉ cần đượ c nhắc nhở là đủ, trừ khi ngườ i chế tạo cho nó thêm một chức năng nào khác và giới thiệu nó lần nữa trên thị trường.
Lối quảng cáo thứ hai này dựa trên khái niệm “tài sản của nhãn hiệu” (Brand Equity) nghĩa là ” tên tuổi của một mặt hàng cũng là tài sản của hãng” vì nó
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 93/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
làm cho hàng của hãng sản xuất ra nó bán chạy và bán cao giá hơn đầu về mặt
nguyên liệu và phẩm chất, nó có thể chỉ ngang ngữa với các sản phẩm cùng
lứa. Những “nhãn hiệu có giá” nhất có thể ước tính bằng số tiền chủ quảng cáo
đổ vào để gây dựng nên nó. Theo Moules (dẫn bởi D. Bennett trong S.Monye,
1997), sau đây là năm nhãn hiệu đắt tiền nhất thế giới tính theo đơn vị tỷ đô-
la:
1) | Marlboro | 44,6 |
2) | Coca-Cola | 43,4 |
3) | McDonald’s | 18,9 |
4) | IBM | 18.5 |
5) | Disney | 15,4 |
Quảng cáo sản phẩm Coca-Cola nói chung và quảng cáo Coca Diet v ới độ đường thấp đặc biệt dành cho người kiêng thức ngọt là hai hình thức quảng cáo khác nhau. Loại đầu tiên có thể dùng lối quảng cáo bằng chương trình tiết mục truyề n hình (sponsoring commercial hay time commercial), loại thứ nhì có thể dựa trên phim (ngắn) truyền hình (spot commercial).
Trong khuôn khổ lối qu ảng cáo thứ hai, ta cũng có thể mở mộ t dấu ngoặc để nói đôi lời về lối quảng cáo mà chính hãng buôn tự quảng cáo cho hình ảnh của mình (Corporate Advertising), còn gọi là quảng cáo giao tế xí nghiệp (PR Advertisng) hay qu ảng cáo khuyếch trương nghiệp vụ (Institutional Advertising). Hãng ATT (Viễn Thông Hoa Kỳ) đã thử lối quảng cáo này từ năm 1908 (theo Bellaire) và được các hãng khác như Dupont (Hoá học), United States Steel (Luyện kim), General Electric (Điện khí), Chrysler (Ô – Tô)… theo gót. Truyền hình được coi như môi thể lý tưở ng cho loại này vì nó sử dụng vừa hình ảnh, vừa âm thanh, vừa động tác ….và có độ truyền đạt đến
quảng đại quần chúng. Để thu hoạch được hảo ý của khán thính giả , họ thường nói về mình qua những ch ủ đề như sự lương thiện, khả năng mướn nhân viên, có nhiều cổ đ ông, yêu đất nước, chuộng tự do, tiên khu trong kỹ thuật, cung cấp mặt hàng có chất lượng cao vv…Cùng lúc, họ cũng đề ra những mục đích cao đẹp hay “sứ mạng” của họ nữa.
- QUẢNG CÁO BẰNG CHƯƠNG TRÌNH, TIẾT MỤC TUYỀN HÌNH (TIME COMMERCIAL)
Để thực hiện hình thức quảng cáo này, quảng cáo chủ phải đạt được những điều kiện sau:
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 94/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Có trong tay chương trình hay tiết mục truyền hình với nội dung mong muốn
- Có trong tay khoanh giờ nhiều khán giả xem để chiếu nó ra.
Chủ quảng cáo có thể ch ọn một trong ba lối sau đây để có trong tay chương trình tiết mục để chuyên chở thương điệp của mình:
- Mua sản phẩm của đài hay mạng truyền hình làm ra;
- Mua sản phẩm của đài và của nhà sản xuất chuyên nghiệp hợp tác làm ra;
- Mua thành phẩm của nhà sản xuất chuyên nghiệp dành cho truyền hình (packager). Lối này hiện nay phổ biến nhất.
Từ năm 1959, A. Bellaire đã phân loại cách bảo trợ (sponsorship) chương trình để dùng nó như công cụ quảng cáo cho mình theo những phương thức như sau:
- Phương thức một mình chủ quảng cáo cung cấp ch
một cõi (Full Program Sponsorship) trong đó người ương trình mỗi tuần.
- Phương thức trao đổi luân lưu (Alternate Sponsorship) hai chủ quảng cáo thay nhau mỗi người chịu trách nhiệm một tuần nhưng chủ quảng cáo bạn cũng được góp mặt mỗi tuần.
- Phương thức phân chia nhiều mảnh quảng cáo cắt chương trình (thường dài từng mảnh và chia phí tổn.
(Segment Sponsorship) một số chủ trên một tiếng đồng hồ) một buổi ra
- Phương thức giải toả ngân sách (Budget Relieve) tùy theo mùa và tùy theo lợi ích của mình, hai chủ quảng cáo có thể nhường phần chương trình mình đang nắm cho bạn để hai bên cùng có lợi.
- Phương thức tiết mục thịnh diễn (Special Event): cung cấp chương trình đặc biệt có tỷ lệ thính thị cao như tuyển cử, phát thưởng, trận đấu thể thao.
- Phương thức tiết mục đặc biệt (Special Program): cung cấp chương trình như kịch, âm nhạc, phóng sự, tạp hý nhưng không thuộc loại thường xuyên hàng tuần mà chỉ được lập trình đặc biệt ở một thời điểm nào đó.
- Phương thức chương trình thời sự (News Program)
- Phương thức chương trình giờ trống (Participating Program) bằng cách cung cấp những chương trình vào giờ trống (Fringe Hours) như trước 9 giờ sáng và sau 11 giờ đêm để được giá rẻ.
- Phương thức chương trình ngắn buổi trưa: ví dụ chương trình ngắn 15 phút như phim kịch chương hồi, đố vui, tạp hý, dạy làm đẹp …nhắm các bà nội trợ.
Trướ c đây, các hãng qu ảng cáo phụ trách cả việc chế tác cho khách chương trình tiết mục dành vào việc quảng cáo. Đó là truyền thống có vào thời kỳ chỉ có quảng cáo truyền thanh. Ngày nay, các hãng quảng cáo tuy bắ t buộc phải có kiến th ức tối thiểu về phim ảnh để được việc cho khách nhưng ít khi trực ti ếp nhúng tay vào việc chế tác chương trình tiết mục nữa. Các hãng quảng cáo
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 95/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hàng năm kiểm tra các mặt hàng (văn bản, băng từ và phim đủ mọi tiết mục) để góp ý với khách và có lúc, môi giới cho khách những nhà sản xuất có thể thực hiện chương trình thích hợp với yêu cầu.
Quảng cáo chủ nhiều khi ký tên đài thọ một chương trình tạp hý (varieties) mà
chỉ biết sơ qua tên tuổi người chủ trương, các vai chính, khái lược về nội dung
là cùng. Đó là một thiếu sót nhưng khó làm khác hơn vì lý do kỹ thuật. Trong
lãnh vực phim truyển truyền hình, họ có thể có cơ hội xem “phim mẫu” (pilot
film), phần giáo đầu của bộ phim trường thiên, trong đó người ta cho biết về tài
tử, nhân vật và một số diễn tiến của truyện phim để lôi cuốn người ta xem
những phần sau. Nếu họ hài lòng với “phim mẫu”, chủ quảng cáo có thể đòi hỏi
thêm phần “cương yếu” (outline, phần tách rời rõ ràng vai trò và trách nhiệm
của những người chế tạo toàn bộ phim) để tránh việc những đoạn phim sau có
thể thiếu chất lượng so với đoạn phim mẫu. Chủ quảng cáo thường dựa trên
những thành quả đã đạt được của nhà sản xuất cũng như kinh nghiệm sử dụng
phim của chính mình. Tuy nhiên, họ khó có thể cẩn thận đến cùng vì chuyện
“đầu voi đuôi chuột ” trong giới sản xuất vẫn thường xảy ra và ý thích của quần
chúng không phải bất di bất dịch.
- thích của quần chúng (độ thính thị) dẫn dắt đến quyết định lựa chọn chương trình và lựa chọn đài truyền hình của các quảng cáo chủ. Arther Bellaire đã phân loại chương trình dùng làm cơ sở cho quảng cáo ở Mỹ làm 7 loại như sau:
- Phim Kịch (Drama) như phim truyện thông thường, phim trinh thám, phim mạo hiểm, phim cao bồi Viễn Tây …)
- Chương trình thi đố (Quiz) với sự tham gia của khán giả,
- Chương trình tạp hý (Varieties) ( chung chung, thiên về âm nhạc hay hài hước …)
- Tiểu thuyết truyền hình liên tải (Sitcom hay Situation Comedy)
- Thể thao (Sports)
- Thời sự (News)
- Các loại khác (âm nhạc, phỏng vấn …)
Chủ qu ảng cáo sẽ nghiên cứu các thể loạ i nói trên để xem loạ i nào hợp với tên tuổi và mặ t hàng của mình, và trong một thể loại nào đó, đâu là ch ương trình cá biệt có thể sử dụng đựơc. Một trong những tiêu chuẩn lựa ch ọn có thể là độ thính thị. AC Nielsen cho bi ết phim cao bồ i Viễn Tây có độ thính trị trung bình 27% nhưng trong nhóm này có loại ăn khách (47%) và loại kém ăn khách (20%). Mặt khác, phim hồi hộp trung bình có độ thính thị 27% ch ẳng hạn thì có phim thu hút khách 36% khán giả, phim khác chỉ có 11% thôi. Lúc đó, tiêu chu ẩn kinh phí sẽ được đặt ra để chọn chương trình thích hợp nhất hay hay một pha trộn (cocktail) chương trình nào đem đến hiệu quả nhất.
Chủ quảng cáo còn có thể chơi sang khi lựa chọn một chươ ng trình đặc biệt, hiếm có, tuy đắ t tiền nhưng gây được tiếng vang.Một tháng trước mùa Giáng Sinh, họ có thể tung ra một chương trình thông báo trước v ề kế hoạch Đại hạ giá nhằm lôi cuốn khách hàng. Nói khác đi, họ cũng có thể bằng lòng với một chương trình thông thường, khiêm tốn trong dài hạn. Chủ quảng cáo chỉ
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 96/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
muốn nhằm vào các bà nội trợ sẽ dùng loại phim liên tả i (chương, h ồi), kịch, đố vui, tạp hý, n ấu nướng vào những ngày trong tuầ n. Mu ốn đánh vào một đích nhắm rộng lớn hơn, họ phải đợi ngày cuối tuần. Ví dụ chươ ng trình thi đấu thể thao quan trọng cho chiề u thứ Bảy hay chương trình văn hoá, giáo dục đám đông yêu chuộng ngày Chủ Nhật.
- QUẢNG CÁO BẰNG THƯƠNG ĐIỆP ĐỘC LẬP VỚI CHƯƠNG TRÌNH (SPOT COMMERCIAL)
Quảng cáo truyền hình lồng khung trong một chương trình tiết mục truyền hình
thường đựơc diễn ra trên mạng quốc gia và có dính líu đến nội dung chương
trình. Ngược lại, quảng cáo bằng thương điệp lẻ, độc lập, lưu động hơn. Người
ta thường phóng nó lỗ chỗ (spot) trên những đài địa phương vào những giờ
trống mà không cần dính dáng gì đến chương trình. Nếu thương điệp lồng dài
và đóng khung trong những chương trình ăn khách thì thương điệp lẻ ngắn,
chen vào các chương trình thông thường như dự báo thời tiết, tin tức, thể
thao…..Có người đã so sánh hai thứ thương điệp này khác nhau như thể nhật
báo với tạp chí vậy.
Loại thương điệp lẻ là nhữ ng thông báo lỗ chỗ (Spot Announcement) đựơc dùng nhiều nhất khi người ta đặt nó xen kẻ vào hai chương trình (Spot) hay vào giữa chương trình (Participation).
Tại sao ta phải đi phân biệt làm chi thương điệp lẻ với thươ ng điệp lồng trong chương trình vì nhiều khi nó xuất phát từ một gốc. Bellaire giải thích là trong quảng cáo bằng chương trình (Time Commercial) người ta không cầ n phải sửa soạn công phu. Thương điệp có cơ hộ i hiện ra trong một hoàn cảnh thích nghi để nói chuy ện buôn bán vì chủ quả ng cáo đã bỏ tiền ra đ ài thọ một chương trình hợp ý khán giả. Khán giả đến đó như đến “mộ t chỗ hẹn” và sẵn sàng xem quả ng cáo. Trong khi đó nh ững ng ười xem thương điệp lẻ thường không hẳn chú ý tới khung cảnh chung quanh nó cho lắm, mải bận trò chuyện với người khác hay bận tay chỗ này ch ỗ nọ không ch ừng.Do đó, nghệ thuật làm thương điệp lẻ là làm sao cho người xem phải chú ý ngay đến mình từ xen đầu đến xen cuối (from first to last scene).
- TIÊU CHUẨN LỰA CHỌN MỘT TIẾT MỤC TRUYỀN HÌNH, KHUNG QUẢNG CÁO
Tiết mục truyền hình gi ống nh ư một chiếc xe để chuyên chở thương điệp nhưng chính bản thân nó cũng là một thương điệp nữa. Chủ nhân quảng cáo cần nghiên cứu kỹ càng mối tương quan giữa tiết mục trình bày và quần chúng khán giả.
Chương trình như thế nào thì hấp dẫn khán giả loại nào, tài t ử nam nữ nào sẽ lôi kéo được người xem thuộc thành phần nào. Chủ nhân quảng cáo phải “nhận
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 97/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
diện” đựơc khán gi ả một ti ết mục truyền hình có ph ảI là gi ới khách sẽ mua món hàng của mình hay không, tiết mục ấy có liên quan gần xa gì với món hàng bán hay không. Sau đó ông ta phả i biết độ thẩm thấu của tiế t mục đó trong quần chúng: người ta xem tiết mục ấy vì tên tài tử, tên người hoạt náo chương trình hay tên tuổi của đài truyền hình ….
Ch ủ nhân quảng cáo xem tiết mục truyền hình tượng trưng cho “bản mặ t” của họ và đánh giá nó theo tác dụng chuyển dịch tình cảm của khán giả đối với nó về phía người quảng cáo cũng như chính món hàng.
Thương điệp lồng khung trong một tiết mục truyền hình thường dài (30 đến 60
giây hay hơn nữa) so với một thương điệp trình bày lẻ loi. Trong khi thương
điệp lẻ phải “phấn đấu” để nói lên tiếng nói của mình vì được đặt trong một môi
trường xa lạ, Thương điệp lồng không bị bức bách, nó cứ nương theo nội dung
tiết mục trình diễn mà đi. Một tiết mục trình diễn nhiều khi được “đồng hóa” với
chủ nhân quảng cáo và như thế, tăng thêm đựơc uy lực cho thương địêp. Ở Nhật
chẳng hạn, đài TBS đã dành khâu giờ từ 20 giờ ngày thứ hai cho hãng điện khí
Matsushita nên khâu giờ này được gọi là “khâu giờ Matsushita”. Cùng một thể
ấy, khâu giờ từ 21 giờ ngày thứ hai là “khâu giờ Toshiba”. Sự liên kết chặt chẽ
giữa một tên hãng với một khâu giờ rất quan trọng vì nó tạo ra khả năng đồng
hóa giữa hai vật thể cá biệt nói trên và “điều kiện hóa” phản xạ của khán giả. đến
nổi người ta có thể nghĩ nếu ngày nào Matsushita hay Toshiba không bỏ tiền
quảng cáo nữa thì hai khâu giờ kia chắc cũng đến mất luôn.
Chúng ta còn thấ y một điều nữa là các chủ quảng cáo luôn luôn tìm cách kết hợp nội dung của tiế t mục trình diễn với ngành nghề của họ mà mục đích nhằ m gồm thâu tất cả thiện cảm khán thính giả dành cho chương trình. Những “tình cờ phi lý” có thể xảy ra như khi hãng hàng không JAL (Japan Air Line) của Nhật giới thiệu chương trình đố vui Sekai Fushigi Hakken (Khám Phá Điều Hay Lạ Trên Thế Giới) trong đó, khán giả được đư a đi th ăm các danh lam thắng cảnh, cung điện đền đài…như một khách du lịch. Hãng truyền hình TBS đã chiếu một kị ch bản chương hồi mà trong đó cứ h ồi nào, nhân vật chính của câu chuyệ n, một thám tử tư, cũng phải đi vào hiệu thuốc tây để mua một hộp thuốc của Công ty dược phẩm Sankyo. Trong những năm 60, hãng buôn Marui đã mua hế t chương trình thể thao “Sport News” để chỉ quảng cáo về mình. Cũng vậy, hãng rượu sake Sanraku đã chiếu 40 lần phim quả ng cáo rượu của mình vào mỗi ngày ch ủ nhật. Đó là nhữ ng hình thức quảng cáo có tính chất toàn trị và áp đặt đã gây nhiều phản ứng không tốt đẹp t ừ phía những người bênh vực cho sự trong sáng của văn hóa truyền hình.Người chủ quảng cáo, ở Nhật hay ở đâu c ũng thế trước hết quan tâm về hiệu quả của thương điệp mình phóng ra. Họ phải nhận xét xem khán giả của một đài nào đó vào một khâu gi ờ nào đó có phải đích nhắm của mình không đã. Một cuộc điều tra năm 1995 (Yokoyama dẫn, 1997) cho biết 77,1% chủ quảng cáo th ương đặt câu hỏi ” Những người này có phải là khán thính gi ả tôi hằng mong đợi không ?”, so vớ i 73,4% muốn biết “Nội dung của chương trình có dính líu gì đến hàng tôi bán ra hay không?” và 55,9% đặt trong tâm ở mức độ thẩm thấu trong quần chúng của chương trình qua tỷ suất thính
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 98/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thị. Sau đó mới đế n những câu hỏi về giá chế tạo và phóng ả nh, ti ếng tăm của đài truyền hình và những người trình diễn cũng như chươ ng trình của các hãng cạnh tranh cung cấp. Hơn phân nữa (57%) các chủ quảng cáo xem phim quảng cáo như “mặt mũi “của mình, 52% coi nó như là phương pháp dễ lôi kéo thiện cảm của khán thính giả đối với mặt hàng.
CHƯƠNG CHÍN
PHÂN PHỐI NHÂN SỰ TRONG VIỆC THỰC HIỆN PHIM TRUYỀN HÌNH
I. PHÍA NGƯỜI CẬY QUẢNG CÁO (Sponsor Participants)
Người cậy quảng cáo, còn gọi chủ quảng cáo (Sponsor, Advertiser), cần gửi đại diện của mình (Advertiser’s Representative) đế n chổ thu hình. Phần nhiề u, đại diện cho người cậy quảng cáo chỉ là nhân viên của hãng quảng cáo từng làm việc sát cánh với họ, kèm thêm mộ t s ố chuyên viên kỹ thuậ t của hãng mình. Điề u kiện tất yếu của nhân vật này là kiến thức sâu rộng về mặt hàng và năng lực chuyên môn về phim ả nh để phán đoán tính khả thi trong quá trình soạn phim cũng như có thể làm trung gian giữa người cậy quảng cáo và nhà sản xuất.
- PHÍA HÃNG QUẢNG CÁO (Agency Participants)
1) Giám Đốc Thực hiện (Ceative Director)
Tạm dị ch là Giám Đốc Thự c Hiện (Dù chữ Creative có nghĩ a là sáng tạo), thường được vi ết tắ t là CD. Người CD quản lý và chịu trách nhiệm toàn bộ trong quá trình làm thương điệp (CM = Commercial Message) của một hãng quảng cáo, không riêng cho mộ t khách hàng nào, từ giai đoạn kế hoạch, chế tạo cho đế n lúc phim hoàn t ất. Sau khi nghe những lời giải thích minh định phương hướng (orientation) củ a người cậy quảng cáo (sponsor), anh ta xúc tiến việc soạn thảo kế hoạch và khi đã đượ c sự đồng ý của người cậ y qu ảng cáo trong buổi họp trình bày (presentation) giữa hai bên cậy và nhận làm quả ng cáo, sẽ đứng ra chỉ huy việ c sản xuất phim từ lúc chế tạo cho đế n khi phát trên làn sóng (on air), cũng như kiểm soát mọi chi tiêu cho đúng ch ỗ cũng như thời điểm mà phim bắ t buộc phải hoàn tất. Anh ta là người chịu trách nhiệm sau cùng của CM tuy không trực tiếp theo dõi mỗi ngày. Công việc theo dõi là của người quản đốc phương án CM.
2) Giám đốc kỹ thuật (Art Director)
AD là người làm việc chung với người thảo án (copywriter) để hình thành một
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 99/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phim quảng cáo. AD chỉ huy việc xây dựng bằng truyện hay chính tay viết
bằng truyện, anh ta cùng làm việc với bộ phận thương mại để có cái nhìn toàn bộ phim về quảng cáo phải thực hiện.
3) Quản Đốc Dự Án (CM Planner hay PL )
Quản đốc phương án hay PL làm việc dưới quyền CD hay Giám Đốc Thực
Hiện, anh ta có nhiệm vụ suy nghĩ về đề tài và phương án thực hiện nó, kết hợp
chặt chẽ với người làm phim để truyền đạt ý muốn của người cậy quảng cáo,
làm sao cho giữa người cậy làm phim và người chế tạo phim không có sự bất
nhất trí. Nếu CD là người gợi ý, PL phải thực hiện ý đồ và thâu tóm nó khéo
léo vào tác phẩm. Những PL giỏi rất được trọng dụng. Họ thường trẻ, nhạy
cảm, có những ý tưởng mới mẻ, tươi mát và rành rọt về kỹ thuật truyền thông.
Họ hợp tác với người thực hiện phim trong việc lựa chọn diễn viên, âm nhạc,
nơi chốn quay phim, cho đến trang trí, y quan, dụng cụ chưa nói đến những can
thiệp và đánh giá về mặt diễn xuất, góc độ thu hình. Ngay cả khi quảng cáo đã
thành phim rồi, PL vẫn còn có bổn phận xem lại phim để những đòi hỏi của
chủ quảng cáo đựơc tôn trọng vì nó có thể bị lệch hướng đi trong quá trình thực
hiện phim, một điều không tránh khỏi vì người làm phim là nhà kỹ thuật, nhà
nghệ thuật chứ không phải con buôn. Có nơi người quản đốc phương án được
gọi là Người Chấp Hành Sản Xuất (Executive Producer).
3) Người Thảo Án (Copywriter hay C)
Người thảo án là nhân viên hãng quảng cáo có nhiệm vụ về câu chữ, lối vận
dụng nó trong kịch bản phim (script) nhưng không cần có mặt trong phim
trường để can thiệp vào chi tiết trong quá trình thực hiện phim. Tuy vậy, vai trò
của người này quan trọng khi phim đã thực hiện xong. Lúc đó, C có nhiệm vụ
xem xét và tu chính nếu cần để đúc kết truyện phim (narration). Những C tự do
(Free Copywriter) không phải là người của hãng quảng cáo, sẽ không dự vào
việc xem xét này.
4) Chấp Hành Liên Lạc (Account Executive)
Như một nhân viên hành chính, AE là gạch nối giữ a khách hàng và những người thực hi ện. AE có phận sự liên lạ c đôi bên để mọi sự tiến triển tốt đẹp. Nhân vật này không dính líu gì đến kỹ thuật làm phim.
5) Người Thiết Kế Mẫu (Designer hay D)
Người tạo mẫu cũ ng là nhân viên hãng quảng cáo nhưng đắc dụng trong loại quảng cáo trên ấn phẩm hơn là trong lĩnh vực phim truyền hình. Dầu họ không liên hệ trực tiếp vào việc thực hiện phim nhưng có thể góp ý về sự hài hoà giữa lối diễn xuất và dàn cảnh đòi hỏi lúc quay phim.
- PHÍA HÃNG CHẾ TÁC PHIM QUẢNG CÁO 1) Nhà sản xuất (Producer)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 100/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nhà s ản xuấ t chịu trách nhiệm từ trong đến ngoài việc thực hiện phim quả ng cáo nghĩa là bao quát từ nhân sự, tiền bạc cho đến s ự thành b ại lúc phim được mang lên đài chiếu. Người giao việ c (chủ quảng cáo) và người nhận việc (hãng quảng cáo) nhất nhất phải đặt sự tin tưởng vào nhân vật này.
Trước tiên, nhà sản xuất phải là người nắm được nhân viên, hoàn toàn hiể u biết bối cảnh phim. Vai trò của anh ta ngày càng quan trọng nhất là trong một thời đại khó khăn khiến người ta thường đòi hỏi thực hiện tác phẩm có chất lượng cao với ngân khoản hạ n chế . Anh ta ph ải quản lý cả 4 khâu sau đây: nhân viên, dự khoản chi tiêu, lịch trình chế tạo và chất lượng của tác phẩm.
Nhà sản xuất đóng vai trò trung gian và điều chỉnh giữa hãng quảng cáo và hãng
làm phim. Trong khi hãng quảng cáo phải tuân thủ ý kiến của người của người
chủ quảng cáo, người làm phim có thể đi xa đề vì trong quá trình thực hiện có
những bó buộc có tính cách kỹ thuật và sở thích nghệ thuật không phù hợp với
đòi hỏi ban đầu. Vì thế, nhà sản xuất như nhân vật chủ chốt (Key Man) phía làm
phim đứng ra thương thảo với phía chủ. Nhà sản xuất thường là người chịu trách
nhiệm sản xuất (Production Manager hay PM) trong nhiều năm, quen biết nhiều
với Giám Đốc Thực Hiện (CD) của các hãng quảng cáo cũng như với người có
trọng trách thông tin quảng cáo trong những hãng quảng cáo. Đối với các nhân
viên thuộc khâu kỹ thuật hay các diễn viên, nhạc sĩ, người cho thuê quay
phim…anh ta cũng phải quen biết sẵn. Tóm lại, nhà sản xuất phải là người quen
biết rộng biết nhiều và được sự tín nhiệm của tất cả.
2) Người Trách Nhiệm Sản Xuất (Production Manager)
Nhân vật này thường đượ c gọi là PM này là người chịu trách nhiệm chủ yếu của việ c sản xuấ t phim quả ng cáo. PM trợ giúp nhà s ản xuất để mọi việ c tiến hành tốt đẹp. Mọi công việc phải chuẩn bị (chọn nhân viên, làm thảo án, phối trí lịch trình thực hiện, làm bản d ự chi, kiếm diễn viên, chọn đị a điểm quay phim, mỹ thuật, y trang, âm nhạc…) không việ c nào mà không lọt qua mắ t của ng ười chịu trách nhiệm sản xuất.Tuy PM có sự tr ợ giúp của mộ t hay nhiều Phụ Tá Sản Xuất (Production Assistant hay PA) nhưng PM phải ch ịu trách nhiệm tất cả. PM cần nhanh nhẹn, thông minh và có sứ c khoẻ. Thườ ng khi ra trường (đạ i học) muốn thành PM phải qua giai đoạn PA trong vòng 3 hay 4 năm, dĩ nhiên không phải ai cũng thành công để trở thành PM.
PM phải đúng hẹn giao hàng cho nên việc tôn trọng lịch trình thực hiện là bí quyết thành công. Tiền bạc dành cho phim có giới hạn, PM ph ải thu vén làm sao để khỏi vượt mức d ự chi. Còn việc quản lý nhân viên, PM cần nắm vững giờ giấc của mọi người vì h ọ đến từ những nguồn nhân lực khác nhau. Cuối cùng, việc quản lý chất lượng của tác phẩm cũng rất quan trọng vì phim quảng cáo là nơi bao nhiêu người đổ mắt nhìn vào.
3) Những người thu hình (Camera Department Staff)
Những người thu hình ph ần đông hành nghề quay phim như nghề tự do (Free Camera Operator) như ng có những người thu hình chỉ chuyên quay phim quảng cáo. Trong một xã hội mà số lượng phim quảng cáo quá ít, không thể có sẵn loại
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 101/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
người này nên người ta đành dùng những người quay phim truyện để phụ trách nó. Muốn trở thành người thu hình, phải qua giai đoạn th ực tập của ng ười phụ tá (Assistant Camera Operator) để h ọc hỏi kinh nghiệm. Dĩ nhiên, muốn trưởng thành, ng ườ i phụ tá thu hình phải có những đức tính như nhạy cảm, có khiếu thẩm mỹ và thông cảm với đặc tính thương mại của phim quảng cáo.
Dưới tay người thu hình là người phụ tá thứ nhất (First Assistant Camera Operator, còn gọi là Chief), phụ tá thứ hai (Second Assistant Camera Operator) và tùy theo nhu cầu, có khi phải dùng đến người quay phụ thứ ba (Third Assistant Camera Operator).
Người thu hình phải biết tính toán tốc độ, màu sắc, tác dụng lăng kính, ánh sáng cũng như góc cạnh quay, khổ hình khi thu hình (Shooting). Ng ười phụ tá th ứ nhất có trách nhiệm đo độ ánh sáng, giới hạn độ nhắm (Focus) hay hay tầm xa. Người thứ hai s ử dụng máy, chọn phim, lắp phim, đổi máy, đổi lăng kính, thay đổi hướng hoặc di động máy vv…Dĩ nhiên, tuỳ trường hợp, những người thu hình thường chia xẻ công việc giữa họ.
4) Người trách nhiệm ánh sáng (Lightman)
Đó là những người phần lớn không thuộ c vào một hãng quảng cáo nào cả (Freelancer), nhờ họ mà hình ảnh quảng cáo đạt được phẩm chất cao. Ng ười thu hình phụ thuộc vào ng ười trách nhiệm ánh sáng và thườ ng dành cho anh ta nhiề u thời giờ để điều chỉnh ánh sáng tối ưu. Họ th ường cũng có người phụ tá số một, số hai như người thu hình. Công việc của họ nặng nhọc nhưng không được đền đáp đúng mức nên giới trẻ ít người chịu theo ngành này.
5) Người thiết kế phông cảnh (Art Designer)
Họ đảm trách mô hình phông cảnh (Set Design). Dựa trên những vị trí đặt máy quay phim đã được ghi trên bảng phác họa, hãng quảng cáo và người phụ trách diễn xuấ t với sự đồng ý của chủ quảng cáo, bắt đầu gọi người may sắm y trang, dụng cụ và cậy ng ười chuyên về phông cảnh đến thiết kế. Người thiết kế phông cảnh cũng thường làm việc tự do và chi phí dùng vào việc này rất biến động khó lường trước được con số.
Những người thiết kế phông cảnh thường xuất thân từ ngành kiến trúc nhưng họ cần phải có cả kiến thứ c về điện ảnh và có cá tính nữa. Họ chỉ có thể chuyên môn làm một thứ ví dụ như nghệ thuật tạo hình hiện đại, kiến trúc Âu Mỹ hay Nhậ t Bản …Tuỳ theo nhu cầu, người ta sẽ tìm đến những nhà thiết kế trong lĩnh vực chuyên môn của họ.
6) Những người dựng đề-co và phụ trách dụng cụ (Art Department Staff)
Dựa trên thiết kế phông cảnh, họ bắt tay vào việc dựng đề -co và dụng cụ sơn phết vẽ vời cũng như trang trí nội thất, rèm màn, đèn đóm và cả v ườn tược. Nhữ ng gì có thể mua sắm được thì mua sắm, còn không phải làm lấy (các công việc mộc, nề …).
7) Người phụ trách máy móc (Machine Operator)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 102/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Họ giúp điều khiển các loại xe, giúp di động máy quay phim…Hiện nay với máy
- tính, họ đã có thể điều khiển các loại máy móc từ xa hay để tự động .
8) Người phụ trách hiệu ứng đặc biệt (Special Effect Operator)
Họ làm mây, mưa, mù, tuyết rơi, lửa cháy vv…những hiệu ứng đặc biệt để phim quảng cáo được sống động. Ngày nay, với sự xu ất hiện củ a những hình ảnh do thủ pháp của máy vi tính đem lại, vai trò của họ của họ lu mờ dần.
9) Người thao tác (Animation Operator)
Trong phim, có khi phải di động búp – bê hoặc thương phẩm, dụng cụ, phải cần có những người làm thao tác. Với sự ra đời của hình ảnh tạo bằng máy vi tính, những người này dần dần biến mất.
10) Người trang điểm (Hair Set-Up&Make-Up Staff)
Chủ yếu sửa soạn đầu tóc và trang đi ểm cho nhân viên diễn xuất để phù hợp với nội dung của phim. Những diễn viên có tiếng thường đem theo chuyên viên trang điểm của họ đến.
11) Người phụ trách về vóc dáng (Stylist)
Phụ trách về y trang, chỉ đạo việc mua hay mượn quần áo dựng trong phim theo vóc dáng của diễn viên.
12) Người phân vai (Casting)
Đóng vai chính trong việc thử tài (audition) và sử dụng các diễn viên phụ.
13) Người phụ trách phối âm (Mixer)
Họ là kỹ sư âm thanh điều khiển giàn máy phối âm (cũng gọi là Mixer).
14) Những người cố vấn lúc thâu hình (Technical Advisor)
Để tránh những khó kh ăn lúc biên tập phim, người cố vấn kỹ thu ật giúp khâu thu hình hiểu rõ những chi tiết kỹ thuật lúc quay phim (Shooting) để tiết kiệm thời giờ và tiền bạc.
15) Các phụ tá kỹ thuật trong mọi hoạt động cá biệt
Từ chuyên gia nấ u nướ ng dạy thú diễn xuất hoặc sử
(Cooking Stylist), chuyên gia vũ đạo (Choreographer), dụng các loại xe cộ, máy móc.
16) Người biên tập phim (Editor)
Có nhiệm vụ sắp xếp, cắt xén phim để cuối cùng, nó có được một trật tự hợp lý.
Anh ta là người sử dụng những phương tiện kỹ thuật biên tập lành nghề.
- Người phụ trách hình ảnh vi tính (Computer Graphic Artist)
- Người phụ tá phối âm (Mixer Assistant)
Trợ giúp người ph ối âm chính để lồng băng ảnh và băng âm thanh với nhau (Synchronization) cho được hài hòa.
19) Người tạo tác dụng âm thanh đặc biệt (Sound Effect)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 103/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
20) Người chọn nhạc (Music Effect)
Phải k ể thêm là trong lúc dùng ngoại cảnh (Location) ở nước ngoài, cần có người sản xuất và phối hợp (Coordinator-Procuder), người phụ tá giám đốc (Assistant Director) cũ ng như nhà sản xuất phụ tá (Product Assistant) địa phương công tác vì họ nắm v ững điều kiệ n làm việc tại chỗ.Theo qui tắc của Hiệp Hội Các Nhà Đaọ Diễn Mỹ (DGA), một phim quảng cáo quay ngoại cảnh
- Mỹ mỗi ngày phải thuê ít nhất hai phụ tá giám đốc (AD). Trong ngôn ngữ chuyên môn của Mỹ, những vai chuyên môn được gọi bằng danh từ có khi hơi khác như Giám Đốc Phim Ảnh (Director of Photographer), Người Thu Hình (Camera Operator), người phụ trách ánh sáng (Gaffer), tương đương với từ Assistant Lightman. Phụ tá của Gaffer được gọi là Best Boy, người lo về nguồn điện chiếu sáng gọi là Electrician hay Generator Operator, còn người lo về cơ khí hay đúng hơn là người làm bất cứ việc gì để giúp vào việc thu hình được gọi là Grip, cao hơn hết là anh Key Grip. Người lo y trang gọi là Wardrobe Attendant. Bên cạnh còn có người phụ trách an ninh mướn từ bên ngoài (Police Officer), nhân viên cứu hỏa (Fire Fighter), người dạy học cho các diễn viên trẻ còn ở tuổi đi học (Welfare Teacher), người lo việc vận chuyển xe cộ (Teamster), người tìm ra và giới thiệu ngoại cảnh (Location contact / Scout)…họ là những nguồn chi phí khác mà khi quay phim quảng cáo ở Mỹ, người ta bắt buộc phải nghĩ tới.
Điều cần lưu ý là những ngườ i tham dự vào việc làm phim mang những danh hiệu khác nhau, tùy theo họ ở Mỹ, Nhật hay Âu Châu, và có những nhiệm vụ đặc thù được định rõ từ trước.
Trong quyển sách này, nhiều khi thuật gia dùng ch ữ “anh ta” để chỉ vai trò mộ t nhân viên kỹ thuật nào đ ó nhưng không có dụng ý xem nh ư công việc này chỉ có phái nam mới làm được. Nh ững t ừ ngữ như Best Boy hay Script Girl trong tiếng Mỹ để chỉ người phụ tá ánh sáng và người theo dõi thực hiện kịch bản phim cũng vậy : nó chỉ có tính cách lịch sử và sẽ tự động biến mất theo thời gian.
CHƯƠNG MƯỜI
QUÁ TRÌNH VÀ KỸ THUẬT TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ THỰC HIỆN PHIM TRUYỀN HÌNH
Khi thực hiện phim, chúng ta phả i đi qua hai ch ặng đường : soạn thảo và chế tác. Soạn thảo là giai đ oạn nghiên cứu và chuẩn bị mọi chi tiết trên giấy trắng mực đen trong khi chế tác liên quan đến phim nhựa và ống kính. Như mọi công
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 104/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
trình sáng tạo, nếu muốn hoàn chỉnh và có giá trị , nó phả i được phối h ợp bởi ba yếu tố hay 3T (Trí,Tâm,Thể ) và nói nh ư kiểu Âu Mỹ, đó là 3H (Head, Heart, Hand) của những người chế tác và sản xuất.
Chúng ta đều biết rằng việc thực hiện phim truyền hình là một công việc đòi
hỏi khả năng sáng tạo. Sự sáng tạ o có thể đi ra ngoài luận lý nhưng sự sáng tạo là k ết quả củ a quá trình phân tích chín chắn như là cách nói của Albert Camus (Sự sáng tạo bắ t đầu khi ta đã suy nghĩ cặn kẽ ” La création commence où la pensée finit “ ). Theo Philip Kotler (xem Leduc, sđ d), sáng t ạo không chỉ là tưởng t ượng nhưng tưở ng tượng có mục đích, hữ u hiệu, với dạng thức cụ thể và khả n ăng truyền đạt rõ ràng. Alex Osborn củ a hãng quảng cáo BBDO (Batten, Barton, Dustine, Osborn) xem như quá trình sáng t ạo phải gồm 3 chặn: phân tích mọi dữ kiện, khai triển và phối hợp các ý kiến để rồi tìm ra giải pháp sau cùng.
I. SOẠN THẢO ĐỀ ÁN PHIM TRUYỀN HÌNH
Trước khi bắt tay vào việc soạn thảo phim truyền hình, người thảo án
(copywriter) phải có một số tri thức thỏa đáng về mặt hàng được đưa lên
quảng cáo, về thị trường nơi người ta tung thương phẩm đó ra. Trong một hãng
quảng cáo, những tin tức về thương phẩm đều nằm trong tay người phụ trách
khách hàng (AE hay Account Executive). Muốn biết về nội dung mặt hàng,
người thảo án phải thông qua anh ta hay có thể nghiên cứu trực tiếp qua tin tức
báo chí nói về thương phẩm đó, xem như cơ sở của quảng cáo (copy platform).
Từ tài liệu cơ bản này, ta có thể đúc kết những điểm chính yếu về thương phẩm
trong một bản tóm lược (fact sheet) bao gồm những thông tin như sau : bối
cảnh của việc chế tạo sản phẩm đó, nội dung, lợi ích của nó, người cạnh tranh
trên cùng một loại hàng, mục đích dài hạn của sản phẩm, ưu điểm phải nhấn
mạnh, điểm nào phải phô trương, những gì tế nhị cần thận trọng trong lúc trình
bày.
Để làm việc một cách hữu hiệu, người thảo án phim truyền hình có khi phải cất công đi thăm xưởng, hãng, nói chuyện với những người trách nhiệm để tìm hiểu, quen thân v ới mặt hàng hơn trong quá trình sản xu ất của nó. Như thế, có khi lại khám phá ra những điểm độc đáo ăn tiền (selling points) của món hàng mà có khi chưa ai thấy ra trước anh ta.
Điểm thứ hai mà người so ạn thảo phải nằ m lòng là mục đích của chiến dịch quảng cáo. Tùy theo mục đ ích, anh ta có thể đề nghị phương pháp quảng cáo (phim sống thu hình tại chỗ hay phim chuẩn bị sẵn, độ dài của phim (10 giây,
- giây, 1 phút…), trình bày thương phẩm với hình dạng nguyên thủy của nó hay ảnh tượng hoá (visualize), phóng ảnh ở một địa phương hay trên mạng toàn quốc, chọn người rao phim (announcer) hay diễn viên đóng phim như thế nào…Nếu không phải là một quảng cáo ngắn (spot-anouncement) tung ra một cách độc lập mà là quảng cáo dài lồng khung trong một chương trình (program) thì phải thu xếp làm sao cho quảng cáo và những yếu tố của chương trình (không khí, diễn biến cốt truyện, phong cách) ăn khớp với nhau nếu không nói
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 105/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
là tan loãng, hòa hợp vào nhau (integration).Có nhiều người còn thực hiện những thông báo quảng cáo mà trong đó nhân vật chính trong chương trình truyền hình thủ luôn vai diễn viên.
Độ dài của thông báo quảng cáo và thời điểm để xen nó vào chương trình
thường liên hệ với nhau. Đầu và cuối chương trình, ta có thể phóng quảng cáo
ngắn, giữa phim quảng cáo dài hơn. Ví dụ một chương trình buổi tối dài 30
phút, ta có quyền sử dụng 3 phút quảng cáo (theo pháp luật ở một số nước tiên
tiến). Như thế, ở đầu và cuối chương trình, có thể 2 quảng cáo, mỗi cái 30 giây,
giữa chương trình có thể chen 2 phút quảng cáo ( hình thức 45 giây / 1 phút
rưỡi / 45 giây cũng có thể chấp nhận). Nhiều khi các chủ quảng cáo, vì lý do
kinh tế, có thể tiếp sức để quảng cáo một sản phẩm chính và một sản phẩm
phụ. Trong trường hợp này, sau khi chương trình mới bước vào phần giới thiệu
và chưa vào hẳn nội dung chính, người ta có thể đặt một quảng cáo “gác
mũi” (cowcatcher) hay tiên phong. Sau khi chương trình vừa diễn xong,
người ta có thể đặt một quảng cáo “quá giang” (hitchhike) hay hậu tập, hai
thứ quảng cáo này ăn lan vào thời giờ của chương trình. Nếu quảng cáo nối
tiếp một chương trình ăn khách, nó sẽ thừa hưởng được dư ba của chương trình
đó. Tuy vậy, quảng cáo nằm giữa một chương trình vẫn thường có ảnh hưởng
lớn hơn vì nó nương tựa được trên cơ sở của chương trình mà khán thính giả
bắt đầu quen mắt.
Một phim quảng cáo có thể được phóng ảnh trong vòng 13, 26 hay 52 tuần hay hơn nữa tùy theo dự chi của chủ quảng cáo. Có những thông báo chỉ được dự tính cho ra vài ba lầ n, có những thông báo khác được kéo lâu hơn xem mãi không chán. Nhữ ng thông báo “sống lâu” (thông báo trường thọ) thường là những thông báo thực hiện dưới hình thức hoạt hình có âm nhạc (animated jingle).
Nội dung của một thông báo quảng cáo thường bao gồm 5 yếu tố quan trọng sau đây
1) Hình ảnh (Sight)
Hình ảnh là cơ sở của thông báo truyền hình, nó sẽ tăng thêm hiệu quả với sự trợ giúp của âm nhạc, hiệu ứng âm thanh, lời đối thoại và giải thích thích hợp.
2) Động tác (Action)
Hình ảnh đơn thuần dễ gây nhàm chán, muốn hình ảnh vui mắt có thêm động tác. Kỹ thuật thâu hình của ống kính làm cho hình ảnh sinh động và mang nhiều ý nghĩa.
3) Độ tập trung (Concentration)
- chính muốn nói phải được trình bày rõ ràng, đơn giản và nhấn mạnh để khán thính giả nắm được ngay. Hình ảnh đưa ra phải xoay quanh một chủ đề để khỏi bị tản mạn, chia trí khán thính giả.
4) Tính đồng nhất (Identification)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 106/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tên tuổi sản phẩm hay nhà sản xuất phải hiệp một với sản phẩm, được trình
bày cách nào để khán thính giả ghi nhớ, phân biệt một cách ý thức hay vô thức
(conscious and unconscious identification) và không nhầm lẫn với thương
phẩm của nhà sản xuất khác. Hành động mua hàng mà người quảng cáo mong
muốn chỉ có thể xảy ra nếu người khách nhớ đến nhãn hiệu. Tên tuổi (name)
hay biểu tượng thị giác (visual device) như búp bê, hình tượng … có thể giới
thiệu thẳng món hàng
5) Tính chân thực (Sincerity)
Thành thực là nguyên t ắc cơ bản c ủa thành công, dù hiện nay nhiều quảng cáo nói không đúng sự thật hoặc khoa trương quá lố (“nhất thế giới”, “hay kinh khủng”, “đẹp vô cùng” vv…) và là đối tượng của mọi sự phê phán.
Hình thức của qu ảng cáo truyền hình có nhiều thể loại, từ chỗ chỉ cần một anh xướ ng ngôn viên ngồi bệt trước ống thu hình đến một kị ch bản có tuồng tích hẳn hoi. Có khi quảng cáo dùng người thật, khi thì nhân vật tưởng tượng, khi thì dùng thương phẩm làm trung tâm điểm cho thông báo. Agnew và O’Brien kể ra 6 loại hình như sau:
1) Người phát ngôn viên giới thiệu( Presenter)
Hình thức thông dụng và ít tốn kém nhất. Người giới thiệu thường là một người
chào hàng (có khi) cầm thương phẩm trên tay, giải thích về nó trước máy thu
hình. Nếu nói chuyện khéo léo, phương pháp này dễ dẫn đến thành công.
Thường thường, lời nói chuyện phải giống như là câu chuyện giữa hai người,
dễ gây thiện cảm , chứ không phải lối nói như diễn thuyết trước công chúng.
Về mặt chi phí, lối quảng cáo này không cần dàn dựng phông cảnh gì chi lắm.
Thế nhưng mặt khác, cử một người không ai muốn mời tới để nói dông dài
chưa chắc là điều hoàn toàn thu hút nên lối quảng cáo với người phát ngôn
thường phải được “pha” thêm tính chất thực diễn để bớt nhàm chán.
2) Tiến cử, làm chứng (Testimonial)
Một người có tiếng tăm (tài tử điệ n ảnh, vận động viên có thành tích, học giả uyên bác ) đứng ra ti ến cử th ương phẩm. Mộ t tuyển thủ lái xe đua qu ảng caó tính an toàn của một hi ệu vỏ lốp xe hơi, một nữ diễn viên trẻ đẹp nói về mỹ phẩm, mộ t nhà vô địch đi ền kinh làm chứng hiệu quả dinh d ưỡng của thực phẩm …là những ví dụ cụ thể về trườ ng hợp này. Tuy nhiên, một người vô danh nh ư một bà nội trợ nào đó c ũng có thể giớ i thiệu về nồi niêu soong chảo hay các chất hoá học vệ sinh nhà cử a vì bà ta là người có thẩm quyền trong khu vực nhà bếp, “giang sơn” của bà ta. Hơn nữa, khi khách hàng là mộ t nội trợ bình thường, bà ta có thể cảm thấy đồng điệu với người làm chứng, một người như thuộc “phe cánh” mình.
3) Thực diễn (Demonstration)
Đây là một lối quảng cáo hiệu suất cao nhất bởi vì người xem quảng cáo nào
cũng muốn tìm hiểu thươ ng phẩm có thực sự tốt, có đắc dụng hay không. Th ực diễn nhắm mục đích phô bày cái hay, cái tốt của mình trên thực tế …cho nên
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 107/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phải chuẩn bị hết sức cẩn thận. Người ta có kể chuyện khôi hài về một ông
Tổng Giám đốc hiệu xe hơi, trong lúc thực diễn về hệ thống đóng mở tự động
cửa xe một hiệu mới, đã bị kẹt trong xe không ra được! Khi chọn lối thực diễn,
phải dùng đúng người, đúng chỗ. Người thực diễn tinh thông về thương phẩm
nhưng không cần phải là nhà chuyên môn, lối trình bày phải sống động và
thành thực, không có kịch tính. Quảng cáo máy xay trái cây phải được lồng
trong khung cảnh nhà bếp chứ không phải ngoài trời, quảng cáo xe hơi phải ở
trên mặt đường chứ không phải ở công xưởng, đồng hồ báo thức trong phòng
ngủ chứ không phải ở trong tiệm đồng hồ. Trong khi thực diễn, nên dùng
phương pháp thực nghiệp đối chiếu với các mặt hàng đồng loại để nâng cao
sức thuyết phục.Tuy nhiên, hình thức quảng cáo này khá tế nhị vì có thể gây
tổn hại cho đối thủ. Chủ đề này sẽ được triển thêm trong chương 17, khi vấn đề
pháp lý được đề cập đến.
4) Kích hoá (Dramatized)
Giới thiệu thương phẩm dưới dạng giả tưởng, hình thức kịch hóa có hai
phương pháp chính: phương pháp “giải quyết vấn đề” (trình bày tình huống trước và sau khi dùng thương phẩm) và phương pháp “thoả mãn nhu c ầu”. Phương pháp thứ nhất đưa ra cảnh một người nội trợ bực mình vì giặt đồ mà hãy còn vết ố, một thanh niên râu tóc bờm xờm. Thế rồi sau khi dùng thuốc giặt hay dao cạo râu nào đ ó, cả ng ười nội trợ l ẫn cậu thanh niên đã giải quyết được vấn đề bức xúc với họ mộ t cách nhanh chóng. Phương pháp thứ hai không đá động gì đến vấn đề mà chỉ nhấn mạnh đế n sự sung sướng thoả mãn. Giới thiệu mộ t hiệu xe mới, Chevrolet tung ra khẩu hiệu “Hãy lái Chevrolot mà khám phá nước Mỹ ” (See the USA in a Chevrolet), rồi họ trình bày danh lam thắng cảnh cả nước kèm theo tiế ng nhạc của một biệt khúc tên là “Chevrolet Ca Khúc” (Chevrolet Song). Cùng một thể ấy, hãng xúp Campbell giới thiệu món hàng nổi tiếng củ a mình qua mẩu phim hoạt hoạ một đàn trẻ quây quần quanh bàn ăn thưởng thức món xúp một cách hoạt náo theo điệu nhạc.
5) Tài liệu (Documentary)
Rời l ĩnh vực giả tưởng, quảng cáo cũng có thể dùng phim tài liệu nói về hoạt động cụ thể của một xí nghiệp qua một cuộc thảo lu ận xoay quanh mộ t đường lối kinh doanh, khung c ảnh công xưởng hay s ự liên hệ gi ữa nhân viên trong hãng với nhau. Thường thường, những giá trị được đề ra là giá trị có tính chất tinh thần ví dụ hãng chế biến thực phẩm trình bày cách gạ n lọc th ịt bò để cuối cùng cho ta thấy ch ỉ có miếng thịt ngon mới được giữ lại. Qua đó ng ười ta đánh giá đươc chất lượng của mặt hàng qua quá trình vào bao, đóng hộp c ủa hãng ấy. Cũng v ậy, quảng cáo quyên góp tiền cho một mục đích gì có thể trình bày qua cách sử dụng tiền khác nhau để chứng tỏ ý nghĩa đúng đắn của việc lạc quyên.
Song song với lối quảng cáo bằng chứng từ (testiomonial) như đã nói, lời
quảng cáo phim tài liệu với “người thực việc thực” ( có tên tuổi, ngh ề nghiệp rõ ràng) cũng đạt được kết quả cao với điều kiện khéo léo thực hiện để tránh
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 108/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nh ững ranh hậu quả đi ngược lại ý hướng của chủ quảng cáo (ví dụ ăn nói lắp ba lắp bắp) Hình thức này thường dùng tương đương những sản phẩm mới có tính cách phát minh chẳng hạn ( kiểu xe mới, tân dược, chế phẩm ngành dệt may).
6) Gợi nhớ, nhắc nhở (Reminder)
Đây là ki ểu quảng cáo giúp cho trí nhớ ng ười xem về tên mộ t th ương phẩ m hay tên hãng qua những khẩu hiệu ng ăn ng ắn, qua những bản đồ chỉ địa điểm hiệu buôn n ằm ở đâu. Chỉ cần 10 giây đồng hồ, ta có thể thực hiện được qu ảng cáo cỡ này vì nó khá đơn giản, không đòi hỏi nhiều tính tiết. Để thự c hiện nó, trước hết thông tin phả i thật gi ản dị và chính xác, sau nữa là hình họa và âm thanh phải gắn bó chặt chẽ với nhau không để cho người xem có dấu hỏi trong đầu. Nếu cần phả i ch ạy mộ t giòng chữ con để kết hợp với hình ảnh, nhấn mạnh được những đặc điểm ăn tiền của sản phẩm
- Abe và nhóm Senden Kaigi (Nhật Bản) (1996) cũng dựa trên những thủ pháp biểu hiện để chia thương điệp truyền hình ra làm 13 loại hình như sau:
1) Thực chứng (Demonstration)
Trình bày đặ c tính của thương phẩm bằng mộ t số hình ảnh và âm thanh. Ví dụ khi nói bóng điện Matsushita có nhiều khổ từ nhỏ đến lớ n, hãng này trình bày hình ảnh cụ thể ng ười bóc vỏ cam bên trong hiện ra một bóng đèn, bóc vỏ đậu Hoà lan lại hiện ra nhiều bóng đèn bé tí như hạt đậu.
2) Ảnh tượng (Image)
Không qua hình ảnh cụ thể mà chỉ qua hình ảnh có thể gợi cho người xem một ấn tượng. Giới thiệu tính an toàn của xe mình, Mercedes đưa hình người mẹ nâng niu đứa con trong tay.
3) Người diễn xuất (Talent)
Dùng nhân vật nổ i tiếng để khơi gợi tình cảm tin cậy nơ i người xem và thúc đẩy họ mô phỏng phương thức hành động. Trong nhiều năm Sapporo Beer đã mượn hình ảnh tài tử đi ện ả nh Mifune Toshiro, tượng trưng cho nam tính, để quảng cáo cho rượu bia của họ.
4) Tài liệu (Documentary)
Trình bày quảng cáo như một phim tài liệu với diễn viên nghiệp dư hay là người thường ở ngoài đời. Một nhóm học sinh tiểu học đã quảng cáo cho nhà xuất bản Shogakkan (Tiểu Học Quán).
5) Trò cười (Gags)
Loại quảng cáo này muốn đưa ra những sự kiện vô nghĩa hay ng ược đời để gây thiện c ảm n ơi người xem.Trường dạy ngoại ngữ Nova trình bày một anh học trò lớn tuổi trên đường đi đến trường với nhữ ng hành động kỳ cục nh ư bước đi cứng nhắc như lính gác điện Buckingham và nói tiếng Anh với tất cả mọi người anh ta gặp dọc đường.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 109/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
6) Mảnh đời (Slice Of Life)
Lấy cảm hứ ng từ người thật việc th ật ngoài đời để phim quảng cáo được sống động. Hãng nước tương Kikkoman đã ghi lại quang cảnh trong một nhà bếp gia đình thường dân.
7) Nhân vật phim hoạt họa (Characters)
Để dễ nhớ và gây thi ện cảm, người ta dùng thủ pháp ho ạt họ a với những nhân vật tưởng tượng như động vật được nhân cách hoá kiểu mấ y chú gấu con của tiệm bánh Bunmeido, vịt Donald của Walt Disney. Máy in Xerox dùng ET trong phim của Steven Spielberg nói về một sứ giả tưởng tượng đền từ sao Hoả
8) Hiệu quả đặc biệt (Special Effect)
Tạo ra những hình ảnh ly k ỳ bằng hiệu ứng đặc biệt về hình ảnh hay âm thanh, Liên đoàn các nhà s ản xuất Sữa tạ o ra mộ t bộ xương biết đi để nhấn mạnh đến vai trò của Calcium trong sữa đối với đời sống con người.
9) Nhạc quảng cáo (CM Song)
Lối quảng cáo lồng tên hãng hay thương phẩm trong một khúc nhạc với làn điệu dễ nhớ hay lợi dụng một bản nhạc đã được mọi người ư a thích (hit) làm chủ đề cho món hàng c ủa mình. Hãng Renown nổi ti ếng với bài hát Yeh Yeh, liên kết bài hát với sản phẩm của mình (quần áo phụ nữ trẻ).
10) So sánh (Comparison)
So sánh sản phẩm hãng mình với hãng khác. Nghiệ p đoàn du lịch đảo Guam “đánh tiếng” với du khách Nhật nên đế n đảo Guam chơi thay vì đi Hawai. Từ Tokyo đi Guam mất 3 tiếng rưỡi trong khi đi Hawai mất đến 8 tiếng đồng hồ.
11) Đề cao lợi ích công cộng (Public Utility)
Với nhữ ng lố i trình bày khác nhau như góp ý, cảnh cáo, dạy dỗ…gây cho quần chúng ý thức v ề những v ấn đề bảo vệ môi trường, nhân ái với đồng loại, bảo vệ sứ c kho ẻ. Liên đoàn bảo hiểm Nhật Bản khuyến cáo phụ nữ nên thường xuyên đi chẩn bệnh để đề phòng ung thư vú.
12) Kết Hợp (Tie-Up)
Ta đ ã thấ y Renown kết hợp âm nh ạc với sả n phẩm nhưng còn có lối kết hợp hình ảnh với sản phẩm. Ultraman, nhân vật hoạt họa, được kết hợp với hãng khai thác dầu khí Idemitsu.
13) Bản sắc xí nghiệp (Corporate Identity)
Bản sắc của xí nghiệp được thể hiện qua phù hiệu (Logo Mark) đã được nổi
tiếng củ a hãng, ví như chữ X của Xerox, chữ R củ a Ricoh. Màu xám của Sony, màu đỏ của Honda, màu xanh của Kawasaki cũng là những yếu tố tăng sức mạnh,củng cố loại quảng cáo này.
Từ lúc thảo án cho đế n khi đi vào qui trình chế tác một phim quảng cáo truyền hình, hãng quảng cáo thường thông qua 7 giai đoạn (nhưng có thể áp dụng nhu
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 110/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nhuyễn và lược bỏ những giai đoạn ít cần thiết):
- Giai đoạn moi óc (Brainstorming)
Là lúc người thảo án (writer)ghi lên giấy t ất cả mọ i ý tưở ng liên quan xa gần với k ế hoạch, không ng ại thừa thả i vì một ý tưởng xa xôi có thể nảy ra cảm hứng và đưa đến một ý tưởng gần gũi khác.
- Giai đoạn hội nghị đánh giá (Evaluation)
Giữa người chủ nhiệm chế tác và những người liên hệ về kỹ thuật và người chế
tác ở đài truyền hình, để đánh giá về những gì sẽ đề ra trong thông báo và
hoạch định dự chi quảng cáo. Từ những ý tưởng đã thành hình, gạn lọc để chỉ
giữ lại vài ý tưởng chính cho phim sẽ làm.
- Giai đoạn phác thảo ảnh tượng (Visualization)
Lúc giữ lại vài ba ý tưởng chính cho phim và bắt đầu đi vào chi tiết cụ thể bằng cách dùng cốt truyện bằng một chuỗi hình vẽ cho mỗi ý được giữ lại.
- Giai đoạn hội nghị hiệp ý (Agreement)
Giữa hãng quảng cáo và đại diện khách hàng. Phía khách hàng phải hiện diện đông đủ để đóng góp ý kiến về chi tiết và cho chỉ thị sửa đổi n ếu cần. Lúc này hãy còn vài ba ý nhưng có khi chỉ có một ý độc nhất được giữ lại.
- Giai đoạn tái kiểm thảo (Re-examination)
Từ kết quả của lầ n họp trước. Lần này phía khách xem xét cẩn thận hơn từng chi tiết của các ý nêu ra.
- Giai đoạnđúc kết (Final Checking)
Để ghi gi ữ lại một ý được dùng. Dĩ nhiên ý tưởng được giữ l ại phải độc đáo, mạnh mẽ và lôi cu ốn nghĩa là có nhiều khả năng thành công nhất. Trong l ần họp này cả truy ện phim (story board) lẫn băng ảnh (continuity of images) đều phải được hoàn tất.
- Giai đoạn trình khách (Presentation)
Lúc hãng quảng cáo đã có th ể trình khách hàng kịch bản đầy đủ nhất để đ em dựng thành phim. Đây là lúc cuối cùng chủ quảng cáo còn có thể thêm bớt. Ở giai đoạn này, mọi khoản chi phí cho phim từ phông cảnh, dụ ng cụ , diễn viên, âm thanh, ánh sáng vv…đều phải được ấn định rõ ràng và ghi chép trên giấy trắng mực đen.
Giai đoạn thảo án chấm dứt ở đây và giai đoạn chế tác bắt đầu.
- QUÁ TRÌNH VÀ KỸ THUẬT MINH HỌA BẰNG TRUYỆN (STORYBOARDS)
Trong việc thảo án, sự minh họa băng truyện là quá trình phải vượt qua. Người
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 111/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Mỹ gọi nó là Storyboards, gồm nhiều tấm bảng (Boards) trên đó g ắn những hình ảnh minh h ọa mọi tình tiết, diễn tiến của truyện phim (Story) với l ời thuyết minh chi li bằng vă n t ự. Người Nh ật gọi nó là E-Konte (E trong tiếng Nhật có nghĩa là hình ảnh và Konte là l ờ i viết tắt chữ Continuity. Tóm lại ta có thể hiểu nó như Mộ t Chuỗi Hình Ảnh ( Continuity of Images). Việc xây dựng băng truyện bắt đầu bằng một sơ thảo (Rough Continuity) có thể là băng truyện chỉ bằng chữ vi ết hay hình ảnh. Công việc này do người Giám Đố c Thự c Hiện (CD) hay Quản Đố c Phương Án ( PL) viết bằng bút chì, bằng này là cơ sở cho việc moi óc phóng bút (Brainstorming) của nhữ ng nhân v ật liên hệ đến việc soạn thảo. Bản sơ thảo gồm 5 hay 6 bức vẽ cho một đoạn phim 15 giây, 7 đến
- bức cho 30 giây. Bên cạnh bức họa có phần phụ chú về âm thanh và phần thuyết minh viết ra dưới dạng đen trắng. Sau buổi họp với các nhân vật liên hệ, băng truyện đã có thể ra đời. Bởi vì băng truyện sẽ phải trình bày trước chủ quảng cáo, nó phải được chỉnh lý bằng hình màu, có chua nội dung các loại âm thanh (NA = Narration, Kể truyện; D = Dialogue, Đối thoại; SE = Sound Effect, Tác dụng âm thanh; AN = Announcement, Loan Báo; M = Music, Âm nhạc) bên cạnh. Với phương tiện kỹ thuật bây giờ, băng truyện có thể phác thảo bằng máy vi tính con hay bằng hình ảnh trên băng từ (Videotape). Điều này rất có ích vì trong lúc tiến hành thực hiện phim, ta bắt buộc sửa chữa nhiều lần sơ thảo để nó phù hợp với nhu cầu hơn..
Như thế có nghĩa là cái thời nhà đạo diễn có sẵn mỗi thứ trong đầu, nhớ đến
đâu làm đến đấy, đã qua hẳn. Người làm phim bây giờ không thể nào xử sự tùy
hứng được nữa mà phải ghi chép tỉ mỉ mọi việc cần làm. Việc dựng băng
truyện đã bắt nguồn từ kỹ thuật làm phim hoạt họa (Animation). Ai cũng biết
mỗi giây đồng hồ trong phim hoạt họa cần 24 bức ảnh để có một tốc độ tiêu
chuẩn. Vì thế hãng Walt Disney nhấn mạnh là mỗi động tác (Action) cơ bản
cần ít nhất 4 tấm ảnh. Tuy vậy, tùy theo những điểm trọng yếu hay không trong
câu truyện, ta có thể tăng giảm số ảnh. Trong thời chiến tranh, người Mỹ đã sử
dụng băng truyện để trình bày cho binh lính hiểu được dễ dàng những thao tác
quân sự khó khăn. Sau đó, băng truyện đã phổ biến trong giới làm phim. Đối
với giới quảng cáo, băng truyện không những giúp họ theo dõi quá trình dựng
phim mà còn được sử dụng trong những cuộc nói chuyện, đàm phán với chủ
quảng cáo, dùng như chứng cứ của công việc mình đã thực hiện. Sau đây, ta
hãy xét qua ba điểm cần phải lưu ý lúc minh họa băng truyện:
- Mục đích sử dụng băng truyện (Use)
- Kỹ thuật minh họa (Picture Technics)
- Phương pháp trình bày (Presentation Methods)
1) Mục đích sử dụng băng truyện
Một tổ ảnh (4 bức) có ít nhất 4 công dụng. Thứ nhất nó biểu hiện cụ thể một
phần câu truyện, bộc lộ ra những chỗ yếu kém của cốt truyện để kịp thời sửa
chữa trước khi lấy quyết định. Nó là tư liệu cần thiết lúc ấn định chi phí và
soạn thảo khế ước giữa chủ quảng cáo và hảng quảng cáo.Cuối cùng nó là mẫu
mực mà người thực hiện việc chế tác phim quảng cáo phải tuân theo.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 112/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Đưa hình ảnh để cụ thể hóa, ảnh tượng hóa (Visualization) phim quảng cáo sẽ làm là điều cần thiết vì băng truy ện là điểm gặp gỡ của người chủ quảng cáo, hãng qu ảng cáo, người chế tác từ kỹ thuật đến mỹ thuật. Tuy nó hãy còn nhiề u khiếm khuyế t ví d ụ chưa được mạch lạc, hay thiế u nhiều chi tiết, chưa đủ sinh động như một cuộn phim nhưng nếu không có nó, ta không thể tiến tới những giai đoạn sau. Lúc l ấy quyết định về phương pháp (Policy Decisions) chẳng hạn , băng truyện là c ơ sở để thảo luận. Ví dụ như việc quảng cáo bia uống bằng lon, bằng chai sẽ không hiệu nghi ệm bằng cốc vì bia rót vào cốc sẽ gây tiếng động vui tai , màu vàng của bia và b ọt bia trắng xóa sủi lên để quyến rũ người xem. Do đó, người ta có thể thay thế hình ảnh lon bia bằng cốc bia. Ngoài ra băng truyện giúp ấ n định phí tổn và giá cả để đi đế n khế ước ( Cost Estimates and Contracts), nhất là trong trường hợp đấu thầu giữ a nhiều hãng quảng cáo.Thêm một cả nh có cầu thang, có tấm kính, trên thự c tế đòi hỏi chi thêm số ti ền không nhỏ cho việc trang trí, nh ưng lại có th ể v ẽ ra hay xóa đi dễ dàng trên băng truyện mà không tốn xu nào. Băng truyện sẽ là chứng c ứ về những chi tiết mà chủ quảng cáo đòi hỏi hãng quảng cáo và ngườ i làm phim thực hiện cho họ. Cuối cùng, băng truyện là chuẩn cứ để người làm phim theo đó mà làm (Shooting Script). Dĩ nhiên, qua thực tế, s ẽ có nhiều bất ngờ và ý mới nảy ra. Ng ườ i làm phim phải thử quay và chi chú những điểm khác biệt giữa thực hành và băng truyện, để xem lối trình bày nào có hiệu quả hơn cả. Nên nhớ là phim qu ảng cáo ngắn hơn phim thường nên n ội dung mỗi giây đồng hồ của phim phải đượ c ấn định chi ly và chính xác, chỉ cần đổi ra mộ t hai giây là hiệu quả sẽ khác đi. Do đó, người minh họa băng truyện không chỉ là họa sĩ thuần tuý mà còn là người có kiến thức chuyên môn để hiểu được ngôn ngữ điện ảnh.
2) Kỹ thuật minh họa
Ký thuật minh họa bao gồm hai diểm chính: biểu hiện và bài trí.
Về k ỹ thuật biểu hiện, h ọa sĩ phải luôn luôn tham khảo người thảo án trong quá trình sơ thảo các bức v ẽ (Sketch), bă ng truyện s ẽ thành hình dần dần với nhữ ng thêm bớt của các nhân v ật liên quan qua những lần gặp gỡ thảo luậ n. Truy ện có thể được minh họa bằng bút chì, bút mực. phấn nước hay tổng hợp ba loại nói trên. Minh họa có thể thự c hi ện bằng ảnh (Photo) hay ảnh âm bản (Slide). Tranh vẽ bằng tay đi vào chi tiết nhiều hơn là ảnh chụp và tốn kém tiền công hơn nhưng rẽ hơn về tiền phông cảnh.
Khi thực hiện b ăng ảnh, người diễ n xuấ t và thương phẩm phải dùng người và vật thật. Ngườ i ta thường dùng lối chụp chớp nhoáng vật thể ở động tác nhanh (Stroboscopic Photography) để có cả một chuỗ i ảnh liên tục về người diễn xuất trong nhiều tư thế khác nhau với mục đích làm cho băng truyện sống động hơn. Tổ hợp bốn bức ảnh thường thấy gồm bố n bức ảnh chụp ở cự ly khác nhau nhưng để có tính liên tục, vị trí của nhân vật phải luôn luôn đồng nhất cách chụp ở tầm xa gọi là LS (Long Shot), rồi đến MS (Medium Shot) nghĩa là lối ch ụp ở cự ly xa và cự ly trung bình. Gần hơn nữa là MCU (Medium Cross Up) và gần nhất là CU (Cross Up), lúc đó khuôn mặt nhân vật hiện ra ở một cận
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 113/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ảnh. Thời gian để máy ảnh ti ến từ tầ m xa đến tầm gầ n (Drive-in) được quy định khoảng 2 giây đồng hồ. Người làm phim có th ể dờ i góc độ của máy thu hình (Camera Angle) nhưng trong một phim quảng cáo ngắn ngủi thì trừ phi có lý do đặc biệt mới nên cắt (Cut) như thế.
Băng truyện là một cấu trúc có tính liên tục nghĩa là có tuồng tích hẳ n hòi để ng ười xem quảng cáo trong tương lai có thể hi ểu được qu ảng cáo ấy trình bày về món hàng nào . Cho nên việc cần thiết h ơn cả là trước khi lồng đối thoại hoặ c gi ải thích vào, người làm băng truyện ph ải đọc bă ng truyện trơn để xem thứ chỉ riêng với hình ảnh, góc cạnh thu hình, ta có thể tìm thấy tính cách nhấ t quán của truyện phim không và có cần ph ải huy động tất cả các tổ 4 bức hình hay có thể tùy lúc mà giản lược thành hai bức nhờ hiệu năng củ a ống zoom. Đó là mục đích trong việc dàn dựng băng truyện (Composition and Arrangement).
3) Phương pháp đề xuất (Presentation Methods)
Băng truyện có thể được trình bày trên mặt giấy (on paper) hoặc trên phim. Sử
dụng mặt giấy, có thể cầm trên tay, đặt trên bàn xem từng ly từng tý được.
Băng truyện có thể trình bày dưới dạng xếp kiểu đàn phong cầm (accordéon),
trên một trang giấy với 4 bức ảnh đặt theo chiều dọc, mỗi trang 3 bức một như
một quyển sách hoặc phương thức từ 8 đến 12 ảnh trình bày trên một tấm bìa
lớn.
Băng phim có nghĩa là thu hình trên máy 16mn với phần âm thanh đính kèm. Ngoài ra bă ng truyện có thể trình bày dưới dạng thức ảnh âm bản (slide) liên tục theo lối hoạt họa (animatic).
- HAI HÌNH THỨC CƠ SỞ THỰC HIỆN PHIM QUẢNG CÁO (PRODUCTION BASIS)
1) Điểm khác nhau giữa quảng cáo sống và phim quảng cáo
Phim quảng cáo có thể thực hiện dưới hình thức phim thu sẵn hoặc phim
“số ng”. Loại thứ hai nói ở đ ây là hình th ức quảng cáo trực tiế p vì yếu tố quảng cáo đã hòa tan trong chương trình truyề n hình như một bộ phận không thể tách rờ i khỏi nó. Đó là trườ ng hợp một buổi công diễn mà người trên sân khấu đứng ra nói tốt cho một mặt hàng nào đó.Tuy nhiên, dù là quảng cáo bằng phim thu sẵn hay quảng cáo “sống” truyền hình trự c tiế p, khi quyết định ph ải chọn l ựa hình thứ c nào, người làm quảng cáo phải chú ý đến những yếu tố sau đây: chi phí thực hiện, những ràng buộc trong việc thực hiện, khả năng thay đổi nội dung, sự uy ển chuyển trong mục đích sử dụng phim, những sự kiện xảy ra bấ t chợ t cũng nh ư tính tức h ứng củ a hai loại quảng cáo nói trên. Ph ải nhìn nhận như O’Brien và Agnew, từ sau 1958, loại phim quay sẵn chiếm một chỗ đứng quan trọng hơn loại quảng cáo “sống” rất nhiều.
Về chi phí (Cost), quảng cáo sống có vẻ rẻ ti ền vì không cần phả i chuẩn bị phong cảnh, đồ đạc gì trước cả nhưng quảng cáo bằng phim. Nó lại còn rẻ hơn
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 114/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nếu dùng cùng diễn viên đ ó, kỹ thuật gia đó, phong cảnh đó, dụng cụ đó…ta có thể sản xuất hàng loạ t 4, 5 phim một lúc v ới một ít thay đổi trong nội dung phim.Về những ràng buộc trong việc thực hiện phim (Production Values), ta thấy có những loại quảng cáo không thể dùng “sống” được như qu ảng cáo b ằng hình ảnh đứng yên (stop motion) hoặc hoạt hình (animation). Hơn n ữa, việc lựa chọn địa điểm, th ời tiết, giờ giấc, cũng không thể làm được vớ i loại phim sống. Quả ng cáo sống không thế nào quay được cảnh tuyết rơi giữa mùa hạ, hoa nở giữa mùa đông hoặc đường phố nhộn nh ịp ngựa xe được. Lúc trình diễn sống, diễn viên được cái t ự nhiên nhưng trong phim quảng cáo, sự chỉ đạo củ a đạo diển rất cần thiết vì thời gi ờ quảng cáo ngắn ngủi không cho phép diễn viên nói tràng giang đại h ải. Riêng về khả năng thay đổ i nội dung (Changes) thì phim sống dễ thay đổi hơn trong khi phim dàn dựng sẵn phải tốn rấ t nhiều công lao tiền của. Diễn viên phim s ống chỉ cần tập dượt mỗi đôi lầ n là đã thích ứng được với nộ i dung mới đượ c đề ra.Về tính mềm dẻo trong việ c sử dụng, phim thu sẵn đặt để bấ t cứ chỗ nào trong chương trình cũng được, co giãn từ 10 giây đến 1 phút đều được. chỉ cần cắ t xén khéo léo cũng giữ được đầ y đủ ý nghĩa. Phóng ảnh ở một đài cũng được, ở mạng cũ ng không sao. Ngoài ra, l ợi đ iểm của phim so với quảng cáo sống là phim tránh được nh ững sự cố xẩy ra bất ng ờ (Mishaps). Có gì sai sót còn cắt xén được trong lúc diễ n xuấ t sống thì xử lý khó khăn hơn. Cuố i cùng, quảng cáo sống có lợi điểm mà phim thu sẵn không thể có được: hi ệu quả của sự sống động, tức thời (Immediacy). Bất tiện là nếu sự cố gì xẩy ra thì khó trở tay hơn.
2) Điểm cộng thông giữa quảng cáo sống và phim quảng cáo
Những điểm chung giữa hai hình thức quảng cáo nói trên là sự hiện diện của
người nhờ rao mặt hàng, thươ ng phẩm, khách hàng, máy phóng hình và máy thu hình, quá trình thực hiện. Nói chung, cần phân biệt hai yếu tố: yếu tố con người và yếu tố kỹ thuật.
Nhữ ng nhân vật có mặt trong cả hai quá trình thực hiện thương điệp là người đại diện cho chủ quảng cáo (Advertiser’s Representative), ng ười sản xuất (Producer), người chỉ huy diễn xuất (Director), diễn viên được phân vai (Casting) và những chuyên viên khác (Employees).
IV. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ CHẾ TÁC PHIM (PREPRODUCTION STAGE)
1) Tập hợp đội ngũ (The Creative Team)
Trước khi đi hẳn vào chế tác, nhà s ản xuất phải đứng ra k ết hợp một đội ngũ chuyên viên với sự hội ý củ a Giám Đốc Thực Hiện (CD) và Quản Đốc phươ ng án (CM Planner). Nhân vật then chố t nhất được tuyển chọn là nhà Đạo Diễn (Director) và thường th ường, vì vai trò quá quan trọng với sự thành bại của cuốn phim của nhân vật này, chính chủ quảng cáo hay hãng quảng cáo phải đứng ra tuyển lựa lấy.
Theo O’ Guinn(2000), ở Mỹ, ng ười ta phải trả l ương một người Đạo Diễn gi ỏi từ USD 8000 đến USD 25000 mỗi ngày, và trong thực tế, nhiều đạo diễn phim
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 115/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
truyện nổi tiếng cũng từng làm phim quảng cáo như Ridley Scott (làm cho
Apple), John Frankeinheimer (AT&T), Woody Allen (Campari), Spike Lee
(Levi’s, Nike, the Gap, Barney’s) và Federico Fellini (Coop Italia). Chúng ta còn
thấy các đạo diễn tài danh Pháp như Jean-Jacques Annaud, Luc Besson kiếm
sống bằng cách đó trong khi chờ đợi có người bỏ vốn cho họ thực hiện một phim
truyện.
Đạo diễn phải có tầm cỡ ăn khách với phim sắp được thực hiện. Người ta thường
xét trên tiêu chuẩn những tác phẩm của người ấy trong quá khứ, sau đó là các
tiêu chuẩn khác như thương phẩm cần quảng cáo, ngân khoản, thời gian thực
hiện phim. Sau việc tuyển đạo diễn đến lượt việc tuyển lựa người quay phim. Sự
tuyển lựa này cũng dựa trên những tiêu chuẩn như thành tích nghề nghiệp và
chất lượng công việc của anh ta. Kiến thức kỹ thuật hiện đại của người quay
phim cũng là một tiêu chuẩn tuyển chọn. Nhân vật thứ ba là chuyên viên ánh
sáng. Sự ăn ý giữa người quay phim và người trách nhiệm ánh sáng là điều
không thể thiếu sót. Sau đó là một loạt chuyên viên kỹ thuật (kỹ thuật thu hình,
kỹ thuật hoạt họa bằng vi tính (Computer Graphics), kỹ thuật điều chỉnh chuyển
động của hình ảnh (Motion Control) và mỹ thuật (trang điểm, y phục, đầu tóc,
vóc dáng) như đã nói ở trên.
2) Dựng kịch bản phim (Script)
Sau khi đ ã kế t hợp đội ngũ, ta có thể bắt tay vào việc xây dự ng kịch b ản phim (Script) , dựa trên băng truyện (Storyboards). Lúc này, ta có thể thêm vào băng truyện những chi tiết liên quan đến kỹ thuật quay phim như hướng đặt máy thu hình (Camera Angle), phân đ oạn (Sequence Cut), thời giờ, y trang, dụng cụ và hoàn tất những chi tiế t về âm thanh. N ếu băng truyện là ” CM dự định ” thì kịch bản CM là một ” CM khả thi”vì nó cụ thể và chi tiết hơn. Kịch bản CM là cơ sở cho việc nghiên cứu sở để quay phim, diễn viên cần tuyển chọ n, phông cảnh cần phải thiết kế. Gần đây, các chủ quảng cáo càng ngày càng lưu ý cặn kẽ về tư liệu quay này.
3) Ấn định thời dụng biểu chế tác Creation of Production Timetable)
Mục đích của CM là phóng ảnh hay phóng thanh (On Air) cho nên thời dụ ng biểu được tính ngược lạ i kể từ ngày dự định phóng ảnh và người Quản Lý Sản Xuấ t (PM hay Producer Manager) phải biết cách chia thời giờ một cách hợp lý cho mỗ i giai đoạn thực hiện. Tuy nhiên trên thực tế, thời dụng biểu này thường bị điều chỉnh liên tục vì những sự cố bất ngờ nhưng lời hứa về ngày giờ phóng ảnh phải được tôn trọng và đó thường là điều khó khăn của nhà sản xuất.
4) Tính toán dự chi (Budget for Approximated Cost)
Kịch bản phim, thời dụng biểu và bản dự chi là ba tư liệu cơ sở của người làm
phim quảng cáo. Dĩ nhiên trước đó giữa chủ quảng cáo và hãng quảng cáo đã
nhất trí về một ngân khoản tạm thời rồi nhưng đến giai đoạn này, mọi sự bắt
buộc phải chính xác hơn. Cùng một kịch bản phim nhưng chi phí có thể thiên sai
vạn biệt vì những lý do như tầm cở của diễn viên, ngoại cảnh quốc nội hay hải
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 116/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ngoại, y trang thuê hay tự may lấy, thu hình bằng phim hay băng từ…
5) Tuyển chọn tài từ, diễn viên (Assessment of Actors)
Người diễn xuất có thể là mộ t tài tử đã nổi tiế ng (nếu th ế, th ường thường đã được chủ quả ng cáo và hãng quảng cáo đồng ý từ trước giai đoạn này), người mẫu (Model) hay một người bình thường. Trong hai trường hợp sau này, diễn viên phải qua một cuộc tuyển lựa (Audition). Sau đây là nhữ ng điểm chú ý trong một cuộc thử tài diễn viên, thường do chính người phụ trách chế tác chịu trách nhiệm:
- Đã từng diễn xuất cho một hãng cạnh tranh nào chưa ?
- Nếu đã diễn xuất thì đã thôi diễn từ lúc nào ?
-Ấn tượng giữa người thật và phim ảnh về người đó khác nhau thế nào ?
- Có thể thực hiện được đòi hỏi về kỹ thuật diễn xuất đặt ra hay không?
- Có tai tiếng gì trong cuộc sống hay chưa?
- Có tư cách pháp lý để làm việc hay không (hộ chiếu, thẻ cư trú, bằng lái xe…)
Ngoài ra, trong khế ước với người diễn xuất, cần ghi ra rõ ràng những điểm sau đây để tránh mọi ngộ nhận:
- Sẽ thu hình bằng phương tiện nào (phim, băng từ…) -Thời gian phóng ảnh trong bao nhiêu lâu?
- Khu vực phóng ảnh, địa phương hay toàn quốc, quốc nội hay hải ngoại.
- Phạm vi sản phẩm cạnh tranh (loại sản phẩm theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng, ví dụ giới hạn trong vòng bột giặt đồ hay tất cả sản phẩm vệ sinh trong nhà).
-Thời gian thù lao (một tam cá nguyệt (Kurs =13 tuần lễ) hay nguyên năm.
- Đối tượng thù lao là cá nhân hay hãng chuyên nghiệp nơi diễn viên trực thuộc.
6) Ấn định địa điểm để thực hiện phim (Studio &Outdoor Settings)
Lúc trời xấu hay thời tiết lạnh lẽo, người ta thường sử dụng phim trường. Nếu là
phim trường, phải biết diện tích, chiều cao, nói chung là quy mô của nó, khả
năng thu hình (đặt được nhiều máy hay không), sử dụng nước, lửa được không,
giao thông di chuyển có tiện lợi không, khả năng thiết bị phông cảnh đề co có tốt
không. Phim trường nhiều lúc không trống vì nhiều người cần một lúc cho nên
việc giử chổ trước cùng là điều quan trọng phải nghĩ tới.
Có được địa điểm (Setting hay Location) ưng ý rồ i mới nghĩ ra truyện phim thì gọi là đi lùng bài bản (Scenario Hunting) còn như có truyện phim (Scenario) rồi mới đi kiếm địa điểm quay phim thì gọi là lùng địa điểm (Location Hunting).
Trước khi đ i tìm, phả i chuẩn bị tư liệu, đi ều tra để có đầy đủ thông tin về n ơi mình muốn tìm đến.. Ngoài nh ững thông tin cần thiết lúc sử d ụng nội cảnh c ủa phim trường. Nh ững thông tin đặc bi ệt liên hệ đến ngoạ i cả nh là khí h ậu, cự ly xa hay gần, giấy phép thu hình…Khi thu hình ngoài trời thì những chi tiết như lúc mặt trời mọc hay lặn, giờ thủy triều lên xuống, nguồn điện cho các loại máy
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 117/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
móc vv…cũng phải được xem xét.
Người trách nhiệm sản xuất (Product Manager) còn có nhiệm vụ ki ếm chỗ trú, phương tiện di chuyển, cơm nước và vệ sinh tại chỗ cho đoàn. Cần có một người phối hợp điề u hành (Coordinator) tại chỗ để nắ m vữ ng những thông tin có tính cách chuyên môn cũng như ngoài chuyên môn hơn. Để tiết kiệm chi phí, khi thu hình ở ngoại quốc, phái đoàn chỉ gồm nh ững nhân vật chính yếu như đạo diễn, diễn viên, quay phim và trách nhiệm ánh sáng. Để thay thế những vai vắ ng mặ t, người ta bắt chước dùng chuyên viên địa phương và việc tuyển l ựa nhân sự có khả nă ng hết sức phức t ạp nên cần có người phối hợp điều hành sở tại, nhất là phong tục tập quán mỗi nước một khác.
7) Thiết kế mỹ thuật (Art Design)
Hai thiết kế mỹ thuật chính là thiết kế màn tu ồng và thiết kế y trang. Thiế t kế màn tuồng hay phông cảnh (Set Design) phả i biết tính toán hình thể, màu sắc của dụng cụ từ nhỏ đến lớn, tạo được không khí (Mood) cần thi ết, phải có kiến thức về thu hình để biết các góc cạnh đặt máy quay phim.Thiết kế này rất quan trọng, nhiều khi phải được chủ quảng cáo chuẩn y.
Thứ đến là thiết kế y trang do ngườ i phụ trách vóc dáng (Stylist) chủ trì. Công việc này khó ở chổ quần áo phải ăn khớp với đầu tóc, trang đ iểm của người di ễn xuất cũng như không khí của truyện phim. Y trang nhiều khi phải đặt làm nếu phim quảng cáo c ần bộc l ộ một tính chất độc đáo nào đó. Dĩ nhiên là đạo diễn, người quay phim và diễn viên cũng phải đuợ c góp ý. Quần áo, nữ trang…phải thử trước (Fitting) để tránh những lủng củng có thể xẩy ra lúc thu hình.
Cuối cùng, thiết kế mỹ thuật còn liên quan đế n thương phẩ m phải trình bày, quần áo cho búp bê trong các thươ ng điệp s ử dụng búp bê, cũng như quần áo dành cho các nhân vật tạo ra bằng hoạt hoạ bằng vi tính (CG).
8) Tuyển chọn âm nhạc(Assessment of Music Suppliers)
Âm nhạc đuợc sử dụng có hai loạ i: âm nh ạc đã có sẵn hoặc âm nhạ c phải sáng tác. Nế u là âm nhạc đã có sẵn thì việc xin phép rất cần thiết (vì vấ n đề tác quyề n) và phải được sửa so ạn mau mắn. Còn nếu là âm nh ạc phải viết ra như nhạc chủ đề c ủa quảng cáo (Commercial Song), nh ạc bi ểu d ương hình ảnh cũa hãng hay của thương phẩm (Image Song) hay nhạc độc đáo (Original Song), người làm quảng cáo phải tuyển chọn nhà soạn nhạc và ca hay nhạc sĩ trình tấu. Có lúc cần có phải mở cuộc tuyển lựa (Audition) nữa.
Phim quảng cáo th ường ngắn ngủi nên để có một hiệu quả mong đợi, người chọn nhạc phải rất nhạy cảm, biết bắt mạch người nghe.
9) Hợp ý nội bộ ( House Team Meeting)
Giữa các nhân vậ t (CD, PL) của hãng quảng cáo và (PD,PM, DR, CO, LM,D) phải có một cuộc h ọp nội b ộ các ng ười trách nhiệm then chốt (Main Staff) . Họ phải trao đổi mọi ý kiế n về phương hướng làm việc trong khâu diễn xuất và thu hình. Ít nhất bộ ba sản xuất (PD), th ực hiện (CD) và quản đốc phương án (PL) phải thống nhất ý kiến sau buổi họp này.. Ngài ra, các tiểu tổ kỹ thuật và mỹ
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 118/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thuật cũng ph ải họp riêng, ngay cả những việc làm sau khi hoàn thành sản phẩm (hậu sản xuất = post production) cũng phải được đề cậ p tới vào lúc này. Sau khi các tiểu tổ đ ã họp riêng, tru ớc lúc quay phim, toàn thể nhân viên lại họp thêm lần nữa (All Staff Meeting) để nhất trí về tiến trình thu hình.Thường th ường, phim quảng cáo đuợ c làm trong những điều kiện bí mật nên nhân viên phải hứa chắc là không để lọt tin tức ra bên ngoài.
10) Hội ý với chủ quảng cáo (Advertiser Reviews and Approvals)
Cuộc họp với chủ quảng cáo (PPM) là thời điểm hai bên (người cậy làm và
người thực hiện) xét lại toàn dự án xem mọi chuẩn bị dã vạn toàn để có một bộ
phim quảng cáo có chất lượng cao với chi phí hợp lý chưa. Cuộc họp này còn
được gọi là PPM1 (Pre Production Meeting) với sự có mặt của đại diện chủ
quảng cáo hay người của hãng quảng cáo, đặc biệt đảm đương công việc của chủ
quảng cáo (AE hay Account Executive) và các nhân vật có trách nhiệm then
chốt (Main Staff) trong việc thực hiện phim. Nội dung phải bàn đến sẽ xoay
chung quanh mục đích quảng cáo, kế hoạch quảng cáo và cách thực hiện. Ngoài
ra, sau khi đả sản xuất xong rồi, mọi người là họp mặt lần thứ hai hay PPM2
(Post Production Meeting) truớc khi tiến hành việc biên tập phim thực thụ bằng
máy vi tính chuyên dụng (On-line Editing). Trong cuộc họp PPM2, với thủ pháp
biên tập tạm thời (Off-line Editing) xem đi xem lại phim nhiều lần, các nhân vật
liên hệ trao đổi ý kiến về việc cắt xén phim để khỏi mất thờì giờ lúc biên tập
thực thụ.
11) Thiết định bảng phân cảnh (Shooting Script)
Bảng phân cảnh do Quản Đốc Sản Xuất (Production Manager) viết ra là tư li ệu không có không được vì nó có mọi thông tin giúp người đạo diễn an tâm thu hình, từ lúc tập h ợp đến khi giải tán. Nó có đủ tin tức về phân chia giờ giấc, phân đoạn, phân vai với lời chú thích tường tận.
12) Chuẩn bị dụng cụ (Preparation of Tools)
Dụng c ụ phải sửa soạn trước tiên là th ương ph ẩm phải quảng cáo nhưng thường thường nó không thể đem ra trình bày như thế mà ph ải trải qua tay những người chuyên môn để được thay hình đổi dạng sao cho hấp dẫ n hơn. Ngoài thương phẩm, còn vô số thứ dụng cụ nhỏ nhất ph ải được chuẩn bị nhưng nên nhớ là không được đem vào phim trườ ng những thương phẩm của các hãng cạnh tranh (ví dụ một chai Pepsi Cola đem đến cho nhân viên thu hình uống có khả năng vô tình hiện ra giữa phim quảng cáo Coca Cola).
Chúng ta cũng đừ ng quên rằng việc hội ý với chủ quảng cáo tuy quan trọng nhưng ý kiến của khán gi ả lại có sức thuyết phục những người này hơn cả . Do đó, một cuộc điều tra s ơ khởi (Pre-Test) ý kiến của một nhóm “khán giả mẫu” về thảo án phim (Script Board) hay băng truyện Video bằng phương pháp ví như ASI Test (Audience Studies Investigation) rất quý báu. Để th ực hi ện điều tra, người ta tụ tập một số khán giả ở nơi nào đó và chiếu cho họ xem nhiều “b ản nháp” băng truyện khác nhau rồ i qua những số liệ u thu thập được, xem độ hứng thú, độ quan tâm của họ đối với mọi băng truyện, độ thuyết phục của mỗi băng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 119/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
truy ện đố i vớI họ như thế nào, ai là tài tử đượ c hâm mộ, phương pháp diễn tả nào được ăn khách. Dĩ nhiên người làm băng truyệ n là các nghệ sĩ sáng tạo vố n không thích người ta ch ấm điểm mình bằng con số nhưng trong nghề, điều tra sơ khởi này thông dụng vì hết sức có ích.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
KỸ THUẬT THỰC HIỆN
PHIM QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
(PRODUCTION STAGE)
-
- THU HÌNH PHIM TRƯỜNG
- Chọn lựa phim trường
Phim trườ ng có loạ i lớn (diện tích trên 1000m2, chiều cao trên 8 m), dùng để thâu phim rạp, loại trung (có 600 đến 800m2) và loại nhỏ dùng để thu phim quảng cáo. Ngoài ra còn có loại phim trường với dàn cảnh đặc biệt như cảnh nhà b ếp, phòng khách vv… Phải lựa chọn phim trường tùy theo nhu cầu để tránh lãng phí.
1) Thiết kế phông cảnh, dụng cụ
Phông và cảnh thườ ng th ường mấ t từ 3 đến 5 ngày để dự ng nhưng 1 hay 2 hôm trước khi quay, đâu phả i vào đấy. Vi ệc dựng phông cảnh chủ y ếu là mộ c, s ơn và dán. Cũng cần có sự tham dự của chuyên viên về viên nghệ và dụng cụ, trang sức.
2) Chuẩn bị ánh sáng
Trướ c hết chuẩn bị giàn và h ệ thống giây giăng móc đèn đuốc. Hệ thống đèn đuố c phải xong ít nhất trước một ngày và được các chuyên viên ánh sáng và thu hình kiểm tra.
3) Chuẩn bị máy quay phim và các máy móc khác
Máy quay phim dùng trong quảng cáo là loại máy với phim khổ 35mm hay
16mm. Ba loại máy hiện tại thường được sử dụng tùy theo nội dung phim
quảng cáo là Ariflex 35III thu hình cơ động và tiêu chuẩn) , Mitchell S35R (thu
hình từng khâu như phim hoạt họa) và Platina Panaflex (khi muốn tìm tác dụng
đặc biệt (special effects) của phim). Nên chuẩn bị các loại lăng kính Zoom tăng
độ lớn gấp 10 lần hay 25 lần vì sử dụng lăng kính khéo léo có thể làm nỗi bật
tính nghệ thuật của phim.Hiện nay máy thu hình bằng băng từ (Videocamera)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 120/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thường đuợc yêu chuộng vì gọn gàng và có họa chất cao.
Ngoài máy thu hình, phải để ý đến các dụng cụ ánh sáng. Hệ thống MI hiện
hành có ánh sáng mạnh gấp 4 đến 5 lần đèn tung-x-ten và ha-lo-gen. Các loại
kính lọc (filter) làm tăng tính nghệ thuật của ánh sáng phim trường. Các giàn
cẩu và đường ray để di động máy thu hình rất cần thiết dù ngày nay người ta có
thể điều khiển sự di động của nó bằng máy vi tính.
4) Thu hình
Hình được thu theo những thủ pháp khác nhau tuy quảng cáo lấy người, lấ y vật hay lấy cảnh làm trung tâm. Thu trong phim trường thì có thể thu hình lẫn tiếng mộ t lúc nhưng để tránh tạp âm hay khi thu hình ngoài trời (open location), có thể thu ảnh và tiếng riêng. Thường quảng cáo được thu bằng một máy và từng phân đoạn một (one cut). Nếu không đạt (NG = No Good) có thể thu lại nhiều lần (Take 1, Take 2….). Để hoàn thành 15 hay 30 giây phim quảng cáo, có khi mất đến hai hôm thu hình.
5) Thu hình với tác dụng đặc biệt
Tác dụng đặc bi ệt càng ngày càng tinh vi từ khi có sự can thiệp của máy vi tính. Thuật ngữ ” tác dụng đặc biệt SFX ” có thể đã được dịch từ từ Science Fiction Extra ( Tác dụng giả t ưởng ) hay Screen Effect (Tác dụng Màn ảnh) mà ra. Tác d ụng này dùng để tạo ra một thế giớ i không có thực bằng cách sử dụng hệ thống thu hình điều chỉnh được động tác (MCS = Motion Control Camera System) với s ự tr ợ lực của máy vi tính. hệ thống này cho phép thu một cảnh (scene) nhiều lần bằng một máy quay phim và mỗi lần, thao tác này một kiểu khác nhau.
Khi quay từng đơn vị một như trường hợp phim hoạt họa (animation) hay phim búp bê, người ta b ắt bu ộc phải ng ừng quay sau từng mỗi động tác của nhân vật trong phim. Công việc có thế kéo dài từ 20 đến 30 tiếng đồng hồ quay phim.
Ngườ i ta còn có thể quay nhanh (high speed) từ 2, 3, 10 đến 1000 lần lúc quay thông th ường (24 ảnh cho một đơn vị) hay quay chậm đi (slow motion, vài giây đồng hồ cho mỗi đơn vị)
6)Thu băng từ Video
Quảng cáo bán đồ dùng tận nhà (Home Shopping) hay quảng cáo cho chương trình của hãng truyền hình thường sử dụng máy thu hình bằng b ăng từ . Trong loại phim này, người diễn xuất làm như đang trình bày trực tiếp trước mặt khán thính giả. Phim có thể dài từ 60 đến 180 giây và có thể thu với mộ t hay nhiều máy thu hình.Trong trường hợp này, người diễn xuấ t phả i nhớ bài bản và dượ t thử trước (dượt suông = dry rehearsal, & dượt trước máy = camera rehearsal) để diễn xuất trơn tru.
- THU HÌNH NGOẠI CẢNH
1) Ngoại cảnh quốc nội
Thu hình trong nước ở ngoài trời phải để ý đến những biến chuyển thời tiết,
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 121/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
giấy phép chính quyền và sự hỗ trợ của cảnh sát khi thu ở nơi công cộng.Trước khi lên đường phải kiểm điểm đầy đủ từ nhân vật, kỹ thuật gia đến dụng cụ và lo lắng nơi ăn chốn ở.
2) Ngoại cảnh nước ngoài
Sự tò mò, thích của lạ của người xem cũng như khuynh hướng quốc tế hóa đã làm cho sự chọn lựa ngoại cảnh ở nước ngoài, tài tử, diễn xuất ngoại quốc…
thành một điều th ường thức. Tuy nhiên kinh phí tốn kém của nó làm nãn lòng nhiều người. Khi quay phim ở nước ngoài, cũng phải để ý đến thời tiết và ngày giờ thuận lợi cho các tài tử. Một liên lạc viên (coordinator) người nước ngoài hết sức cần thiết.
Khi quay xong phải quản lý phim cẩn thận và cho chiếu thử để tránh những sự cố (phim không ra ảnh, nước màu không hợp) và nếu có, sẽ giải quyết kịp thời tại chỗ.
3)Muốn ngoại cảnh đặc biệt để thu hình (Location Set)
Đó là trường hợp phải thuê một khung cảnh đặc biệt (nhà dân, công sở, di tích như Kim T ự Tháp, l ăng Taj Mahal, đấu trường Coliseo…) để thu hình.Sự khó khăn trong việc này là làm sao phải thích hợp k ỹ thuật của mình (nguồn điện, nguồn nước, ánh sáng…)trong những điều kiện vật chất giới hạn.
4)Thu hình trên không
Thu hình trên không thường sử dụng trực thăng hay phi cơ cở nhỏ như Cesna.Loại thu hình này tốn kém và nhiề u khi bị cản trở vì máy đặt không an định và không thể đạt yêu cầu, khó khăn cho phi công vì ở độ cao và di chuyển với vận tốc nhanh cần tuân thủ tiêu chuẩn an toàn.
5)Thu hình dưới nước
Với máy thu hình phòng thủy, ta thể thu đượ c cảnh sắc đẹp mắt dưới mặt nước. Tuy nhiên, việ c thu hình như thế không phải kém phần nguy hiểm. Phải điều tra về địa hình dưới nước, ôn độ và chuẩn bị đồ lặn kỹ lưỡng).
6)Những điều chú ý lúc thu hình
Người thu hình phải tuân theo pháp luật, làm việc trong giới hạn điều kiện sở
tại cho phép dù lúc ở trong nước hay ở ngoài nước. Hơn nữa, còn phải có tinh
thần tôn trọng tài sản và bảo vệ cảnh quan. Biết dự phòng để tránh gây hỏa
hoạn hay thương tật. Từ người thu hình cho đến các thành viên của đoàn, tất cả
đều phải giữ đúng tiêu chuẩn đạo đức tối thiểu cũng như phép lịch sự trong
phong cách làm việc.
III. BIÊN TẬP PHIM QUẢNG CÁO
Hiện nay trên thế giới dù là theo hệ thống ký hiệu biến hóa liên tục (analog) hay biến hóa gián đoạn (digital), màn ả nh truy ền hình màu chỉ có 3 phương thức thông dụng. Hệ analog gồm phương thức NTSC (National Television System
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 122/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Committee) va PAL (Phase Alternation by Line) và SECAM (Sequences de
Couleur a Memoire (P)). Hệ theo digital có ISDB-T của Nhật và hệ Nam Mỹ,
ATSC của Mỹ và Canada, DVB của Âu Châu, Úc và Ấn Độ.
Hệ NTSC ( 525 vạch, 29,97 khung cho mỗi giây đồng hồ) bắt đầu ở Mỹ năm 1954, đến Nhậ t năm 1960, là một phương thức có l ợi về mặt kỹ thuật và kinh tế. Hệ PAL ( 625 v ạch, 25 khung / giây) do hãng Đức Telefunken khai thác, từ 1967 đã đuợc dùng ở Đức và Anh. Hệ SECAM (625 vạch, 25 khung / giây) là hệ quốc doanh của Pháp, được dùng từ năm 1967 ở Pháp và cựu Liên Xô.
Vì sự khác nhay giữ a các hệ thống như thế nên phim truyền hình phải được chuyển hệ khi dùng ở mỗi địa phương.
1)Từ F tới T
Cách nói này ám chỉ vi ệc chuyển âm bản phim 35mm hay 16mm qua băng từ (Film to Tape) vì băng từ có họa chất cao cho phép điều chỉnh hình ảnh b ằng máy vi tính t ối tân một cách dễ dàng.Trong thờ i đại đa môi thể, băng từ có th ể phát triển và thay thế hẳn phim ảnh vốn có lịch sử từ 100 năm nay. Đầu tiên, phim thu xong sẽ được rửa ra và thu lạ i (telecine) lần thứ hai để người điều chỉnh màu sắc (colorist) điều chỉnh và thêm th ắt, sửa chữa màu sắc (color correction) và độ đậm nhạt nếu không được đồng đều (color timing) vì có thể đã được thu trong những điều kiện khác nhau.
2) Ảnh hoạt họa thực hiện bằng vi tính (CG hay Computer Graphics)
Một xử lý không kém phần quan trọng liên quan đến hình ảnh do máy vi tính tạo ra (còn gọi là hoạt họa điện toán). Loại đồ ảnh này thiên hình vạn trạng trong một không gian ba chiều (3D). Nó là những vật thể đượ c xây dựng từ những dữ liệu mô phỏng t ừ động tác của ng ười thật việc thật (mô hình ký hiệu hóa = digitized modelling) ho ặc là những dữ liệu động tác (animation data) của vậ t thể, được kết hợp một cách cô cùng tỷ mỷ và gia t ăng thêm sức sống động bằng những tác d ụng phim ảnh đặc biệt. Dù mới chào đợi cách đây khoảng 15 n ăm thôi, họat họa vi tính (CG hay Computer Graphics) không nhứng là một bộ ph ận không thể thiếu được của quảng cáo truyền hình hiện đại mà còn phổ c ập sâu rộng trong trò chơi (electronic games) và làm phong phú nội dung của các môi thể điện tử mới.
3)Biên tập
Có hai loại biên tập nghĩa là cắt xén phim cho hợp lý. Trước hết, biên tập giả ( off
line edition) nghĩa là biên tập thực hiện với tất cả các bên liên hệ (chủ quảng cáo,
hãng quảng cáo trong cuộc họp có tên là hậu sản xuất 2 tức PPM2 = Post
Production Meeting 2 để phân biệt với PPM1 trước lúc thu hình ) nhằm đi đến
thỏa thuận chung phải cắt xén những phần nào. Sau đó mới đến biên tập thật (on
line edition) tức là giai đoạn cắt xén cuối cùng cộng thêm bổ chính và chua đề.
4)Thu nhạc
Sử dụng nhạc qu ảng cáo, dù là chơ i lại nhạc có sẵn (play back) hay thu nhạ c (recording), phải theo qui trình kết hợp nhạc ăn khớp với hình ảnh và động tác của diễn viên. Ngoài nhạc cụ còn có thể dùng máy phối âm (synthetizer) để tạo các loại âm thanh. Cuối cùng, nhạc sẽ được chuyển vào băng từ dành cho âm thanh
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 123/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
DAT (Digital Audio Tape) 6 mm.
IV. ĐIỀU TRA TIỀN PHÓNG ẢNH (PRE-TEST)
Trong khi đang làm phim và ngay cả lúc phim đã thành hình, sẵn sàng lên đài, việc điều tra nghiên cứu (copy testing) vẫn chưa chấm dứt. Theo Robert Leduc (sdd, tr. 206), nhờ cuộc đo lường cuối cùng này, người quảng cáo có thể loại bỏ được những bất ngờ vào giờ chót bởi vì làm việ c đúng quy trình vẫn chưa là yếu tố bảo đảm được sự thành công vì thị truờng và thị hiếu không ngừng biến đổi :
1) Đo lường độ chú ý và độ hấp dẫn
Do đề ngh ị của Daniel Starch để đo xem đối tượng được chọn để xem thu phim có nhận thức được thương điệp đã chiếu cho họ xem và nhận thức ấy đạt tới trình độ nào (tên món hàng, hình ảnh món hàng…).
2) Đo lường độ ghi nhớ
Với màn ảnh “cao tốc” (tachistoscope) trình bày hình ảnh với vận tố c cao (từ 1/500 giây đến nhiều giây đồng hồ) để xem đối tượng thí nghiệm tự động nhớ ra thương điệp hay cần phải nhắc nhở, gợi ý. Ngoài ra còn có ” thấu minh kế ” (diaphanometre) đo ký ức khi tiếp xúc v ới hình ả nh qua lớp kính mờ, máy thu hình quan sát (eye-camera) theo dõi ánh mắt của đối tượng thí nghiệm khi nhìn phim quảng cáo.
Phương pháp Phim Dàn Cảnh (folder-film) dùng để đo sự chú ý củ a đố i tượng nghiên cứu đối với phim quảng cáo lồng gi ữa một loạt phim chẳng liên quan gì đến nó. Còn phương pháp “Gợi nhớ 24 giờ sau” (24 hours recall) dùng để xem bao nhiêu người nhớ đến thương điệp sau một khoảng cách 24 tiếng đồng hồ.
3) Đo lường độ thông hiểu
Để đo lường thông tin mà đối tượng nghiên cứu còn giữ lại.
4) Đo lường độ xác tín
Để xem phim quả ng cáo có làm thay đổi thái độ và sự lựa chọn có sẵn của đối tượng nghiên cứu hay không.
5) Đo lường ý nghĩa
Gồm th ử nghiệm có tính cách ngôn ngữ và thử nghiệm có tính cách ký hi ệu dể xem có những trở ngại gì trong việc liên kết ngôn từ hay ký hiệu với ảnh tuợng được đề xuất.
- XỬ LÝ NGUYÊN BẢN
1) In(Reprint)
Phim gốc phải được in ra nhiề u ấn bản (reprint). Người quản đốc việc chế tạo (PM) cần tiếp tục lưu ý tỷ mỹ từng chi tiế t với những người phụ trách việc in (Print Desk). Nếu bắt buộc chỉnh lý, phải xem xét cả hai bản, trước và sau khi sửa chữa.
2) Lên đài (On Air)
Các bản phim quảng cáo truyền hình sẽ được phân phối cho các đài truyền hình
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 124/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
địa ph ương và tàng trữ trong những kho phim (CM Bank), qu ản lý bằng một hệ th ống điện tử cung cấp phim (Audio Visual Server). Mai sau, khi hình thức quản lý này phát triển thêm nữa, thì sự phân phối và tái bản sẽ được giản lược đi (non linear, non delivery).
3) Quản lý nguyên bản (Mother Tape)
Qui luật của các hội đoàn quảng cáo chuyên nghiệp đ ói hỏi một sự quản lý nguyên bản rất chặt chẽ (ở Nhật, ACC tức Liên Minh Truyền Thanh Truyền hình Quảng cáo Toàn Qu ốc, ấn đị nh rằng nguyên bản phải được lưu trữ hai năm kể từ ngày hoàn thành). Ngay cả những bộ phận (âm bản phim, băng thu thanh, băng âm nhạc) cũng phải được giữ lại từ 3 tháng đến 1 năm. Hai năm sau khi phim hoàn thành, hãng chế tạo phim có quyền vứt bỏ phim sau khi đã làm tờ báo cáo để thông tri việc này.
4) Sử dụng phim cho mục đích ngoài quảng cáo
Phim quảng cáo có thể sử dụng cho mục đích ngoài quảng cáo như điều tra, nghiên cứ u, ki ểm thảo…hay khi được chuyển qua nh ững môi th ể ngoài truyền hình phát sóng nh ư truyề n hình mạng dây cáp, mạng Net, đi ện thoại cầm tay, đĩa từ DVD.Trong trường hợp này, người sử dụng phải được s ự đồng ý cũa mỗi bên liên hệ qua một cơ quan trung gian chuyên trách việc này vì nhiều vấn đề trong đó có vấn đề bản quyền..
CHƯƠNG MƯỜI HAI
SỬ DỤNG VÀ KHAI THÁC
PHIM QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
- Shinya cho biết chỉ trong một ngày, và chỉ giới hạn giữa vùng Tokyo-Osaka, đã có đến 7000 CM được phóng ra trên truyền hình. Người ta hay chia CM (thương điệp truyền hình) theo tiêu chuẩn kèm theo chương trình (phim, kịch, tin tức, thể thao…) hay không. CM lồng khung trong một chương trình được gọi là Time CM (thương điệp dài) còn CM đơn lẻ, không dính dấp gì đến chương trình nào của đài được gọi là Spot CM (thương điệp ngắn).Xin tạm chia làm thương
điệp lồng hay thương điệp lẻ.
I. NHỮNG HÌNH THỨC PHÓNG ẢNH QUẢNG CÁO
Thương điệp lồng trong tiết mục truyền hình (Time CM) có thể là thương điệp mạng (Net CM) khi nó được phóng ảnh trên toàn quốc. Nế u như nó chỉ có tính cách địa phương, khu vực (Area) thì gọi là thương điệp sở tại (Local CM). Hai loại thương điệp lồ ng này trung bình dài 30 giây đồng hồ nếu nhiều thương điệp được phóng ra một lúc. Khi nó có một mình thì độ dài có thể đến 60 giây. Trong
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 125/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
trường h ợp chương trình dài nó còn kéo đến 120 giây. Khi mượn chương trình tiết mụ c truyền hình làm cơ sở cho quảng cáo, người ta thường dùng 10 giây đầu tiên để giới thiệu “lai lịch” (identity) của chủ quảng cáo và liên hệ giữa họ và chương trình. Họ phải rao:
- Hàng của họ (tên tuổi) là người cung cấp (sponsor) chương trình cho khán giả xem ;
- Tiếp đó giới thiệu lai lịch hãng với giới thiệu mào đầu về ” lai lịch chương trình ” qua đề tài, tên tuổi người sáng tác và thực hiện tiết mục.
Trong khoảng 10 (đến 30) giây khai mào, họ có thể sử dụng nhiều cung cách giới thiệ u khác nhau. Hoặ c trưng bày một số món hàng, một thuơng phẩm đặc biệt nào đó, hoặc kê khai thành quả hãng họ đạt được, những bộ môn công nghiệp của hãng họ hay lý tưởng, mục đích của xí nghiệp vv…
Sự kết hợp hình ảnh của hãng cung cấp và chuơng trình được cung cấp rất quan trọng.
Thươ ng điệp lẻ (Spot CM) thường được đặt ra ở đầu và cuối chương trình, nội dung của nó không có liên quan xa gần gì đến chương trình. Nó chỉ mượn “hơi” chương trình là cùng. Nó có độ dài từ 15 đến 30 giây và do một ch ủ qu ảng cáo đưa ra. Đó là trường hợp các SB (Station Break) hay thương đi ệp xen kẻ, loại qu ảng cáo phóng ra vào thời gi ờ đáng lẽ dành cho đài để thông báo những tin tức có tính cách kỹ thuậ t của đài. Về sau đài thấy khoảng thời gian này béo bở quá nên đã đem bán cho các nhà quảng cáo. Loại thương đ iệp lẻ khác là PT (Participating Spot). Nó nằm trong vùng chương trình những người quảng cáo không phải là người mua chương trình ấy và nội dung quảng cáo chẳng liên quan đến chương trình. Tạm gọi nó là những thương đi ệp lẻ. Số hãng tham gia trong loại quảng cáo có tính chất tập đoàn này cũng nên giớ i hạn khoảng 5, 6 hãng cho một chương trình vì nếu đông quá, hiệu qu ả sẽ không còn nữ a vì sự tập trung của người xem bị phân tán. Thông thườ ng, khi quả ng cáo đi kèm với một tiết mục truyền hình (phim, trò chơi giải trí, thi đấu thể thao, trình diễn âm nh ạc) ngườ i ta thường định tỷ lệ 1/10 gi ữ a quả ng cáo và chương trình. Mộ t chương trình dài 30 phút thì có quyền phóng 3 phút quảng cáo, 60 phút chương trình thì được 6 phút quảng cáo. Chương trình thường được cắ t ra làm ba (tiền, trung, hậu) hay nhi ều đoạn n ếu là ch ương trình thật dài. Quảng cáo đi đôi chương trình phần nhiều là quảng cáo dài (từ 3 đến 6 phút) và diễn viên của chương trình lại xuấ t hiện đồng thời trong những quảng cáo đi kèm để tă ng phần hữu hiệu cho quảng cáo. Muốn biết điều này có thỏa đáng hay không, ta sẽ bàn thêm khi nói về vai trò của người diển xuất trong các thương điệp.
Bởi vì quảng cáo truyền hình phát xuất từ nướ c Mỹ nên chúng ta không lấy làm lạ khi nhữ ng danh từ liên quan đến quảng cáo truyền hình đều có tên tiếng Anh (CM, SB, PT). Có hai danh từ nên nắ m là CC và HH. CC (Cowcatcher) hay hốt bò là tiếng để chỉ những thuơng điệp phóng ra truớ c khi đi vào mộ t chương trình như thế cái tấm chắn đặt trước đầu máy xe lửa thời khai thác vùng Viễ n Tây Hoa Kỳ, để hốt những con bò đi lang thang trước đoàn tàu có thể gây nguy hiểm cho
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 126/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nó. Còn HH (Hitchhike) là tiế ng để chỉ nh ững thương điệp phóng ở cuối chươ ng trình như người đi quá giang một chuyến xe. Hai loại thươ ng điệp chận đầu chận đuôi này có tính cách phòng thủ đối với những người quảng cáo chương trình.
Qua đồ biểu sau đây, chúng ta thử quan sát những hình thức phóng thương đ iệp trên đài truyền hình. Lấy vì dụ trường h ợp mẫu mực áp dụng bởi hai hãng A và B trên đài trong khoảng thời gian từ 7 giờ 59 đến 8 giờ 54:
Đồ biểu 12.1: Các cách phóng thương điệp
- giờ 59 phút: chỉ riêng đài sở tại
- giờ 00 phút : mở ra đài mạng
15 giây
15 giây
30 giây
30 giây (hãng A)
15 giây (dành cho các hãng tham gia)
30 giây (hãng B)
30 giây (hãng A)
SB (thương điệp đơn lẻ)
SB
SB
CC(thương điệp đón đầu)
PT
CM lồng ngày đầu chương trình
- giây (tựa phim hay tựa chương trình)
Phim hay chương trình
(Time)
30 giây (hãng B)
30 giây (hãng A)
CM l ồng giữa chương trình
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 127/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
8 giờ 53 phút
Trở lại đài sở tại (local)
Phim hay chương trình (Time)
30 giây (hãng B)
30 giây (hãng A)
Phim hay chương trình (Time)
30 giây (hãng A)
30 giây (hãng B)
Tựa kết thúc của chương trình
15 giây (dành cho các hãng tham gia)
30 giây (hãng B)
15 giây
15 giây
CM lồng ở giữa chương trình
PT
HH (thương điệp ăn có)
SB (thuơng điệp đơn lẻ)
SB
8 giờ 54 phút
15 giây | SB | |
15 giây | SB | |
Tỷ lệ giữa th ời giờ quảng cáo cả chương trình phim được minh định trong hầu hết các quốc gia để tránh mọi dự tràn ngập tin tức thương mại. Sau đây là truờng hợ p của Nhật Bản (theo Shinya, tài liệ u Hiệp Hội Truyền Thông Nhật Bản, 2000 và Inada) trong trường hợ p quảng cáo lồng trong tiết mục truyền hình (program commercial, participating commercial) vào giờ cao điểm hay hoàng kim (prime time), ngoại trừ truờng hợp các tiết mục thể thao và hội hè đặc biệt:
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 128/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Đồ biểu 12.2: Giới hạn thời gian quảng cáo
Chương trình truyền hình | Thời giờ được dùng để quảng cáo | |
Trong vòng 5 phút | 1 phút | |
Trong vòng 10 phút | 2 phút | |
Trong vòng 20 phút | 2 phút 30 | |
Trên 30 phút | 10% độ dài chương trình | |
Xuất xứ: T. Inada, Media Hoso Nyumon, Tokyo, 1994
Lượng phóng ảnh quảng cáo hàng tuần bất kỳ thuộc loại nào không được vượt
qua 18% toàn thể thời giờ các tiết mục (Time CM). Chẳng những thế, trong
trường hợp các thương điệp lẻ (Spot CM) lượng âm thanh (thời giờ và số âm tiết)
cùng bị giới hạn. Âm tiết (Syllable) ở đây là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong ngôn
ngữ:
Đồ biểu 12.3: Giới hạn âm thanh và âm tiết (syllable) quảng cáo
Yếu tố bị giới hạn | Thời giờ dành cho âm | Số âm tiết được qui | ||
thanh | định | |||
Loại thương điệp lẻ | ||||
5 giây | Trong vòng 3,5 giây | 21 | ||
10 giây | Trong vòng 8 giây | 48 | ||
15 giây | Trong vòng 13 giây | 78 | ||
20 giây | Trong vòng 18 giây | 108 | ||
30 giây | Trong vòng 28 giây | 168 | ||
60 giây | Trong vòng 58 giây | 348 | ||
Xuất xứ: T. Inada, Media Hoso Nyumon, Tokyo,1994
Muốn phóng ảnh trên làn sóng truyền hình dĩ nhiên phả i bỏ tiên ra. Trước hết là tiền chế tạo thương điệp phim (Television Commercial Film, gọi tắt là TVCF hay CF), tiền mướn hay mua hay chế tác chương trình (phim, kịch, thể thao, giải trí như đã nói), số tiền mướ n thờ i gian phát sóng trên đài. Những tiêu chuẩn để định giá thời gian phát sóng là số nhân khẩu hay nóc gia trong khu vực phát sóng, ngày trong tuần, giờ trong ngày. Thông thường ngày cuố i tuần (thứ bảy, chủ nhật) và ngày lễ, ở đại đô thị dân cư đông đúc, gi ờ cơm tối khi gia đình họp mặt đông đủ…là những thời điểm giá tiền cao hơn cả. Người ta chia giá tiền
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 129/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
làm nhiều loại (A, B, C, D…9 và gọi khoảng thời gian từ 19 đến 23 giờ là giờ
hạ ng nhất (Prime Time) mà trong đó khoảng thời gian từ 19 đến 22 giờ được gọ i là giờ hoàng kim ( Golden Time). Cho nên, việc ấn định tiếng cho thuê giờ phát sóng là một yếu tố tổng hợp nhiều điều kiện (dân số hoặc số nóc gia, đô thị hay nông thôn, sức câu khách của các đài, luồng cung cầu của thời giờ phát sóng, hãng quảng cáo là khách quen hay khách lạ của họ…).
Phim quả ng cáo truyền hình thường đuợc phóng ra liên tụ c để duy trì được lượng thông tin trong ký ức của người xem qua sự lặp đi lặp lại. Chủ yếu có 4 lối phóng ảnh hàng tuần:
–Lối phóng ảnh hình chữ L đứng ngược (quay trái thay vì quay mặt) mà đáy là khâu 18 đến 24 giờ mỗi ngày trong tuần, chiề u cao là khâu giờ từ 6 đến 24 giờ hai ngày thứ bảy và chủ nhật.Lối phóng hình này nhằm những người đi làm, buổi tối và cuối tuần là nh ững lúc họ nghỉ việc. Lối phóng ảnh này tốn tiền nhất vì dùng nhiều khâu giờ hoàng kim.
Ngày
Giờ
Thứ | Thứ ba | Thứ tư | Thứ | Thứ | Thứ | Chủ | ||||||
hai | năm | sáu | bảy | nhật | ||||||||
Từ 6
giờ
Từ 12
giờ
Từ 18
giờ
Từ 24
giờ
xxxxxx Xxxxxx
xxxxxx
xxxxxx
xxxxxx
xxxxxx xxxxxx xxxxxx xxxxxx xxxxxx
–Lối phóng hình toàn tuần từ 6 gi ờ sáng đến 19 giờ hay từ 24 giờ trở đi. Lối phóng ảnh này nhằm những bà nội trợ, rỗi rãnh trong ngày, tương đối rẻ tiền.
Ngày | Thứ | Thứ ba | Thứ tư | Thứ năm | Thứ | Thứ | Chủ | |||||||
Giờ | hai | sáu | bảy | nhật | ||||||||||
Từ 6 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxx | ||||||||
giờ | ||||||||||||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 130/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Từ 12 | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | |||||||||
giờ | ||||||||||||||
Từ 18 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxxx | xxxxxx | ||||||||||
giờ | ||||||||||||||
Từ 24 | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | |||||||||||
giờ | ||||||||||||||
–Lối phóng ảnh hình chữ U nằm ngang (U quay về trái thay vì hướng lên trên, nhằm người đi làm lẫn các bà nội trợ vì nó bao trùm khâu gìơ buổi sáng (6 đến
- vá buối tối ( 18 đến 24) những ngày trong tuần và nguyên hai ngày thứ bảy chủ nhật (kể từ 6 đến 24 giờ). Lối phóng ảnh này có mục đích hợp lý hóa chi phí phóng ảnh vì nó loại trừ mạng 15-17 giờ ra ngoài việc phóng quảng cáo vì thời điểm này, kinh nghiệm cho biết là ít người xem truyền hình nhất.
Ngày | Thứ | Thứ ba | Thứ tư | Thứ | Thứ | Thứ | Chủ | |||||||
Giờ | hai | năm | sáu | bảy | nhật | |||||||||
Từ 6 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | Xxxxx | |||||||
giờ | ||||||||||||||
Từ 12 | Xxxxxx | |||||||||||||
giờ | ||||||||||||||
Từ 18 | Xxxxxx | |||||||||||||
giờ | ||||||||||||||
Từ 24 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | Xxxxxx | |||||||
giờ | ||||||||||||||
–Lối phóng ảnh chữ E phóng theo chữ U nằm người có khả năng vặn
ngược chiều (E hướng v ề phía trái), nó giống như lối ngang nhưng nó bao trùm cả giờ cơm trưa là lúc mọi đài để xem.
Ngày
Giờ
Thứ
hai
Thứ ba
Thứ tư
Thứ
năm
Thứ
sáu
Thứ
bảy
Chủ
nhật
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 131/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tu 6 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | Xxxxx | |||||||
gio | ||||||||||||||
Tu 12 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | Xxxxxx | |||||||
gio | xxxxxx | |||||||||||||
Tu 18 | Xxxxxx | |||||||||||||
gio | ||||||||||||||
Tu 24 | xxxxxx | Xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | xxxxxx | Xxxxxx | |||||||
gio | ||||||||||||||
Trong truờng hợp quảng cáo lồng khung trong một tiết mục (Time CM), người chủ quảng cáo không những phải trả ti ền thời gian phát sóng mà còn phải trả tiền chế tạo hay sử dụng chương trình, tiề n đường giây (tùy theo đài s ở tại hay mạng khu vực, mạng toàn qu ốc). Để đưa ra một ví dụ cụ thể, nếu muốn phóng phim quảng cáo 30 giây trên một đài tư nhân củ a Tokyo vào khâu giờ hoàng kim của mạng toàn quốc ( thống kê mùa xuân năm 2000), người ch ủ quảng cáo phải trả mỗi tháng 3 triệu rười đến 4 triệu Yên (USD 29000-33000 ).
Riêng về loại quảng cáo lẻ loi (Spot CM), số tiền bỏ ra thay đổi theo luật cung
cầu của giờ phát sóng hiện có, thời điểm phát sóng (tháng 3 đến tháng 7, tháng 10 đến 12 giá thường cao vì lúc ngoài vụ hè, khác với khoảng tháng 8 đến 9 và 1 đến
- ). Nếu trong trường hợp Time CM, người ta tình tiền theo số phim đưa ra, Spot CM lại áp dụng cách tính khác hẳn. Nó đuợc tính theo điểm số đánh giá độ phổ cập (GRP hay Gross Rating Points). Năm 2001, hãng NTV (Nippon Television) tính một điểm GRP là 65000 Ỵên. Nếu Spot phóng ra đạt được 1000 điểm thì người chủ phải chi 6 triệu rưỡi Yên (khoảng USD54000). Cân nhắc lại GRP được định nghĩa như cấp số nhân của độ đạo đạt (Reach) và số lần (Frequency) tiếp xúc trung bình của khán giả đối với thương điệp.
GRP=R*F
Cụ thể hơn, trong một thời điểm nào đó mà trung bình cứ 100 người thì có 5
người bắt được tín hiệu, nếu phóng 200 bản CM ta sẽ có được 5*200=1000GRP.
Trong những năm gầy đây, hình thức quảng cáo cũ như đỡ đầu (sponsoring) hay trao đổi tiết mục (bartering) ngày càng ăn khách và chiếm một địa vị quan trọng trong quả ng cáo truyền hình. Trước tiên, lo ại đỡ đầu, cung c ấp hay chi viện (sponsor) có ngh ĩa là bỏ ti ền ra chế tác hay mua tiết mục làm s ẳn để có th ể lồng th ương điệp. Nó giúp cho xí nghiệp đồ ng hóa với tiết mục và tạo nên cá tính cho xí nghiệp. Loại trao đổi (bartering) thì theo đó, chủ quảng cáo mua hay hiệ p lực chế tạo một chương trình và để đài truyền hình sử dụng, chỉ xin trao đổi nó để lấy khâu giờ quảng cáo.Các đài còn đề nghị một số giờ giấc vật vờ (floating time)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 132/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
lúc chương trình rỗi rãnh v ới giá rẽ đặc biệt. Loại này tương tự như hình thức trao đổi nhưng không phải lúc nào củng có. Vì giá nó rẻ hơn tiền sản xuất một tiết mục phim cho nên được nhiều chủ quảng cáo ưa chuộng.
II. PHÂN LOẠI TIẾT MỤC TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO QUẢNG CÁO
Hầu như tất cả các loại tiết mục truyền hình đều được dùng cho quảng cáo từ chương trình tin tức, khí tượng, phóng sự, âm nhạc, đố vui, phim ảnh ngo ại quốc, ho ạt họa, tạp hý (varieties) đế n trực ti ếp truyề n hình thể thao… Sự lựa chọn chương trình để đỡ đầu hoặc trao đổ i tùy theo danh giá của hãng, loại hàng bán ra, mục đích thương mại, ngân sách của hãng và thành phần khách hàng đối t ượng của họ. Các loạt k ịch phim của Mỹ đượ c dùng lần thứ hai, thứ ba ở Nhật nhờ giá thành rẻ. Ngay cả những bộ phim có điển thời 1950-60 như The Intouchables, Combats, Miami Vice, The Iron Man…vẫn còn được chiếu đi chiếu lại. Dù sao, chỉ số thính thị mới là một cái mốc quan trọng trong việc tuyển lựa và sử dụng tiết mục.
Như đã nói, mục đích của người xem truyền hình là tiêu khiển và học hỏi
những tiêu khiển vẫn chiếm ưu th ế.Con số của Inada cho biết là năm 1991, trên các đài dân sự (ngh ĩa là có qu ảng cáo) ở Nhật, số lượng chươ ng trình tin tức là 19,4%, giáo dục và kiến thức chiếm 37,0% trong khi chương trình giải trí, thể thao và âm nhạc chiếm 41,5%, khuynh hướng đó kéo dài từ nhiều năm. Ngay cả chưong trình tin tức ngày nay, nó cũng không hoàn toàn nghiêm túc trịnh trọng nữa mà đã mang một màu sắc tiêu khiển (loại bản tin nới rộng hay wide show).
Trong các loại tiết mục, người ta nhận thấy phim tuồng, kịch (kịch xã hội, kịch
luyến ái, kịch trinh thám, kịch lịch sử, tuồng cải lương chương hồi…) là tiết
mục ăn khách nhất. Lý do để loại kịch bản (drama) này được ăn khách có lẽ
thứ nhất là do tính hiếu kỳ (voyeurism), tính viễn mơ (reveries) của người
xem, khả năng của phim để chuyển dịch (transfert) và tiêu tán (catharsis)
những xung đột (conflicts) trong đời sống tác dụng trên tâm lý họ. Nghiên cứu
của giáo sư Iwao Sumiko cho biết trong trường hợp Nhật Bản, kịch ăn khách
nhất là kịch có nội dung giống đời thường, với những tương quan giữa cá nhân
giống đời thường với những chủ đề như ” khắc phục khó khăn, thành công
trong sự nghiệp, khuyến thiện trừng ác, tranh chấp, tình yêu, tình gia tộc, tình
thầy trò, tình bạn, ăn ở có tình, lịch sử, phê phán xã hội”…Một lý do nữa giải
thích sự thành công của loại tiết mục truyền hình này là nó có những chủ đề
phản ánh sinh hoạt của thời buổi. Chương trình kịch chiều thứ sáu của đài TBS
(Kin’yo Dorama) từ 10 nnăm nay nói về những người vợ trẻ ngoại tình là biểu
tượng sự chuyển biến trong phong tục của xã hội Nhật Bản hiện đại.Trong một
chương trình kịch khác (Seiken wo wataru no wa oni bakari, Thời buổi đảo
điên), kịch bản chương hồi nói về hai gia đình sui gia mở quán ăn, nó giống
như một cái túi lớn chứa được tất cả vì hầu như những chủ đề thường nhật đều
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 133/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
được lần lượt đem vào đó để bàn cải.
Bạo lực và phái tính cũ ng biểu lộ nhiều trong các kịch bản và thường bị phê bình như ng thực ra khi Iwao quan sát độ hiện thự c của các cột truyện trong kịch bản từ năm 1977 đến 1994, bà đã thấy nó di chuyển chung quanh 29% (1989) đến 50%(1977) và tính phi hiện thực trong những năm gần đây đã giảm sút (49% năm 1977, vào năm 1994 chỉ còn 19%.Tuy có những xen d ữ dội nhưng một phần những nhà làm phim cũng tự đặt mình trước vấn đề lương thức và sau nữa, bạo lực ở ngoài đời cũng lên cao chẳng kém gì trên màn ảnh.
Có những tiế t mục ngắn hạn, qua đườ ng nhưng cũng có những tiết mục g ọi là “trường thọ ” (choju bangumi) kéo dài hàng hai ba chục năm và đồng hóa tên tuổi của nó với người đỡ đầu. Những phim tình cả m ướt át (soap opera) chiếu vào buổi trưa ở M ỹ nh ư gắ n liền với P&G và k ịch phim nói về cuộc phiêu lưu của Mito Komon, ông chú của mộ t Shogun, vi hành trong dân gian để trừng trị tham quan ô l ại thế kỷ 19 gắn liền với hãng đồ điệ n Matsushita. Phim này dù không có nội dung đặc sắc cho lắm đã đượ c chiếu từ 1969 và đã thay vai chính đến đời thứ tư.. Độ thính thị của phim vẫ n còn ở mức 39% chứng tỏ nó rất ă n khách và có hiệu lực trấn an quần chúng Nhật với “chân lý” nho-giáo muôn đời là “chính quyền luôn luôn bảo vệ dân”, “chính nghĩa bao giờ cũng thắng”.
III. CÁCH SỬ DỤNG PHIM QUẢNG CÁO
Phim quảng cáo chỉ có tác dụng khi được lặp đi l ặp lại nhưng tùy thờ i tùy lúc chứ không thế áp dụng một cách máy móc bở i vì còn có những yếu tố phụ thuộc như danh tiếng của hãng, số khán thính giả, chi phí…nữa. Phim qu ảng cáo truyền hình muố n đến tận nhữ ng nơi xa xôi có khi phải được sự tiếp s ức của các hệ thống thu tín hiệu cộng đồng (Community Television System) hay cục địa phươ ng có đủ sức chuyển tiếp các làn sóng từ trung ương đến nơi có địa hình khó khăn. Ngoài ra, có nh ững đ ài thông dịch (translator) tín hiệ u cao tần số VHF (very-high frequency) thành tín hiệu siêu tần số UHF (Ultra High Frequency). Phim truyề n hình cũng có thể chiếu lại ở các rạp chớp bóng hay dùng ở một địa phương cố định nào đó nếu nó là đối tượng của các cuộc thăm dò cá biệt (Test Markets).
Lặp đi lặp lại một phim quảng cáo truyền hình như thế nào để có hiệu quả như
- ? Nếu phóng ra không đủ, khách hàng sẽ không nhớ đến thương phẩm hay hàng chế tạo, nếu chiếu hoài hoài, nó sẽ “lờn” (worne out) đi và nhiều khi gây bực dọc. Một điều tra thực hiện năm 1986 ở Nhật cho biết nếu đem so sánh cuộn phim quảng cáo chiếu chỉ có một lần và chiếu đi chiếu lại ba lần thì độ ghi nhớ sẽ tiền từ 57,5% lên 70,9%, thiện cảm tiến từ 59% lên 60%, ý muốn mua hàng tiến từ 15,7% lên đến 43,3%.
Đồ biểu 12.4 : Hiệu quả của sự lặp đi lặp lại một thương điệp
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 134/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tuy nhiên, không phải vì thế mà lặp đi lặp lại mãi mãi quảng cáo. Đến một
ngưỡ ng (threshold) nào đó, thần trí con người không thể nào chịu đựng độ kích thích quá mạnh hay dai dẳng.
Kajiyama (sđd) cho rằng thươ ng đ iệp liên quan đến những món hàng nhật dụng như thuốc là hoặc dụ ng cụ vệ sinh nên được phóng ảnh trong một th ời kỳ liên tục (continuous), các loại quả ng cáo về du lịch hoặc quà cáp thì nên phóng một cách gián đ oạn (flighting) và những món hàng như xe cộ, bia, thuốc men, dụng cụ thể thao thì có thể phóng theo lối làn sóng (pulsing) vì không ít thời nhi ều, nó biến đổi theo thời kỳ (thuốc men, xe cộ) hoặc thời tiết (bia, dụng cụ thể thao).
Về độ dài của phim, hãng TBS (Nhật) cũng đã kiểm nghiệm vấn đề bằng cách
chiếu một số phim từ 15, 30 đến 60 giây trong vòng một ngày cho nhiều nhóm
người từ một đến ba lần. Họ tìm ra rằng phim càng dài thì người ta nhớ dai
hơn. Dẫu vậy, thiện cảm đối với phim 60 giây gấp đôi thiện cảm đối với phim
- giây nhưng ý muốn mua hàng chỉ ngang nhau. Hoặc giả lối chiếu phim ngắn mà dồn dập thích hợp hơn với mục đích “tấn công” khi ta muốn giục giã khách mua hàng, còn phim dài chiếu nhàn nhã chỉ dùng cho mục đích “phòng thủ“nghĩa là giữ khách mà thôi chăng?
Để tiết kiệm chi phí, các chủ quả ng cáo thường so ạn hai thương điệ p cùng mộ t nội dung. Thươ ng điệp đầu tiên toàn vẹn (ví dụ dài 30 giây hay 45 giây vớ i đầy đủ tình tiết), thương đ iệp thứ hai rút gọn (còn 15 giây chẳng hạn) tóm tắt thương điệp trước nghĩa là cắt xén những chi tiết thứ yếu và chỉ giữ lại những gì cần thiết. Sau khi phóng thương điệ p toàn vẹ n trong một khoảng thời gian, chủ quảng cáo sẽ cho chiếu thương điệp rút gọn khi biế t chắc khán thính giả đã ghi nh ớ nhữ ng tình tiế t của thương điệp thứ nh ất và bị cắt xén trong phầ n hai. Họ sẽ tự động moi từ ký ức của mình để bổ túc những chi tiết thiếu sót. Điều kiện cầ n thi ết là hai thương điệp này không được lên đài với khoảng cách thời gian quá xa vì như thế, những chi tiết của thương điệp dài có thể đã rơi vào quên lãng.
IV. QUẢNG CÁO CHO QUẢNG CÁO
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 135/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Để có thêm hiệu quả, chương trình hay tiết mục truyền hình cần được rao ra trước khi phóng ảnh để kêu gọi người xem. Hiện nay có bốn cách thức “tuyên truyền” :
- Bộ phận tuyên truyền của hãng quảng cáo sẽ loan tin trước về chương trình sắp chiếu trên báo chương và với sự hiệp lực của các hãng chuyển về ” giao tế xí nghiệp ” (PR hay Public Relations) như tổ chức gặp gỡ, họp báo hoặc cho phỏng vấn.
- Bộ phận thông tin của xí nghiệp cậy quảng cáo (chủ quảng cáo) sẽ đứng ra phụ trách việc loan tin.
- Xí nghiệp cậy quảng cáo thuê chuyên viên ngoại giao (PR) ở ngoài để làm việc hoặc cố vấn cho mình.
- Bộ phận thông tin của đài truyền hình dự báo trên đài về sự xuất hiện của chương trình.
Chúng ta không lạ gì có những đài truyền hình và các hãng quảng cáo cho ra đờ i những tạp chí hay tập san chuyên nghiệp để loan tin về những chương trình sẽ chiếu (các loại TV Guide) hay những chi tiết xoay quanh các quảng cáo (như tờ CM Now ở Nhật chỉ chuyên về quảng cáo truyền hình) nào được phóng ra. Những thủ pháp hiệp đồng bày tăng cường hiệu năng và là chìa khóa thành công của quảng cáo.
CHƯƠNG MƯỜI BA
TÁC DỤNG TỨC KHẮC CỦA PHIM QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH:
ĐIỀU TRA HIỆU QUẢ THƯƠNG MẠI
Những cuộc điều tra hiệu quả quảng cáo có độ tín nhiệm đến đâu ? Đó là câu hỏ i khó trả l ời. Trước tiên bởi vì có quá nhiều biế n số ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của một th ương điệp. Hai là hiệu quả của quảng cáo không thể xem xét tức khắc vì có hiệu quả lâu dài, bắt ta phải chờ đợi mới thấy hay vĩnh viễn thoát kh ỏi s ự kiểm soát của ta.Cuối cùng, quảng cáo chỉ là một công cụ của tiếp thị, làm sao ta tách bạch được người ta mua hàng vì quảng cáo hay chỉ vì bị lung lạc b ởi nh ững thủ pháp tiếp thị kia khác. Dẫu sao, chúng ta có thể đơn cử bốn cách điều tra hiệu quả quảng cáo như sau:
- Điều tra độ đạo đạt của thương điệp
- Điều tra độ chú ý, tập trung tinh thần của người xem
- Điều tra biến chuyển tâm lý của người xem
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 136/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
4) Điều tra sự biến đổi trong hành động mua hàng của khách
Các lo ại điều tra này, trên thực tế, cũng lại có thể sắp xếp trong hai loại : định lượng và định tính.
I. ĐIỀU TRA ĐỊNH LƯƠNG HẬU QUẢNG CÁO
Tỷ l ệ thính thị (rating) dù ở giai đoạn trước (xem chương 7 và chuơng 12) , giữa hay sau khi phóng ảnh (chương 13) , đều ám ảnh những ai nhúng chân vào lĩnh vực quả ng cáo, từ người cậy quảng cáo, hãng quảng cáo, người sản xuất chương trình và phim đến đài truyền hình. Tuy thế, như đã trình bày, có người b ắt đầ u nghi ngờ về giá trị tuyệt đối cũa độ thính thị vì ” xem ” và ” mua ” chưa chắc đã đi đôi với nhau
Tỷ lệ thính thị đã đ ành là s ố nóc gia có người xem một đoạn phim hay chươ ng trình nào đó do một chi cục truyền hình phóng ra vào mộ t giờ giấc nh ất định nhưng n ếu ch ỉ đo chừng đó thì không có ý nghĩa gì đáng kể . Câu hỏi “Ai xem cái gì ?” phải được bổ túc bằng câu hỏi :”Xem như thế nào?”. Do đó các hãng điều tra của Mỹ như A.C. Nielsen, ARB và Trendex đã bổ túc bằng những nghiên cứu có chi ều sâu hơn như phân biệt những mẫu quan sát (sample), loại hình của nó (type of samples), phương pháp sưu tra và giải thích dữ liệu thu thập được.
1) Chỉ số Nielsen
Hãng A.C. Nielsen cung cấp nhiều loại tin tức cho giới cậy quảng cáo: tuần san NTI( Nielsen Television Index) tức “Chỉ số truyền hình A.C. Nielsen”phát hành
- tuần trong một năm, nguyệt san “Báo cáo Nielsen về chỉ số các đài” (Nielsen Station Index Report) và tập san tâm hay lục cá nguyệt “Báo cáo Nielsen về dịch vụ khu vực truyền hình” (Nielsen Coverage Services Report) có tính địa phương hơn.
Để có những con số đáng tin cậy, Nielsen đã phân tích và sắp xếp rất chi tiết đối
tượng điều tra từ hình thái gia đình, độ phân bố địa lý, mức thu nhập, trình độ
giáo dục…và sử dụng Audiometer (Thu thính kế) với sự hiệplực của gia đình
mẫu. Ngoài chỉ số tổng quát TNTI (Total Nielsen Television Index), Nielsen còn
cung cấp những tin tức chi tiết (Complete Analysis) liên quan đến tập quán xem
truyền hình và sự biến đổi hình dạng của từng gia đình mẫu cho những ai muốn
biết thêm.
2) Báo cáo ARB
ARB là tên tắ t của trung tâm nghiên cứu Hoa Kỳ (American Research Bureau), cung cấp mỗi tuầ n thống kê thu thập từ 200 nóc gia trên toàn nước Mỹ thông báo về thói quen tiếp xúc môi thể truyền hình của họ mỗi ngày cũng như mọi tình huống bất thườ ng liên quan đến khả năng đó (máy hỏng, đi vắ ng, bận công chuy ện). ARB thay đổi toàn bộ đối tượng trắ c nghi ệm mỗ i lần. Từ kết quả ghi nhận đượ c có thể loại suy ra tình huống toàn quốc. Ngoài báo cáo toàn quốc, ARB còn báo cáo cá biệt về 150 địa phương khác nhau.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 137/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3) Chỉ số Trendex
Ch ỉ số (index) này biểu diễn xu hướng (trend) của khán giả với các đài trong 20 đô thị có ít nhất 3 mạng truyền hình. YÙ kiến người xem được thu th ập bằng phương pháp phỏng vấn qua điện thoại đồng lo ạt. Tuy ch ỉ giới hạn ở những đô thị lớn nhưng những nơi này mới là chổ truyề n hình cạnh tranh ác liệt hơ n cả Mộ t cống hiến khác của Trendex là thông tin về mức độ yêu chuộ ng của khán giả với các đài, điều này không có n ơi Nielsen và ARB. Hơ n n ữa, chỉ một ti ếng đồng hồ sau khi phóng ảnh, ta đã có thể có những thông tin về hiệu quả của thương điệp quảng cáo. .
Ngoài ba loại chính kể trên ở Mỹ còn có hãng Pals cung cấp thông kê về độ hồi tưởng (Recall Method) thương điệp bằng phương pháp phỏng vấn qua điện thoại. Trong hững năm gần đây, v ới sự phát triển c ủa kỹ thu ật điện tử, người ta có thể áp dụng phương pháp đi ều tra tỷ lệ thính thị tức khắc (Instantaneous Rating Method) bằng cách thu trực tiếp và tự động những tín hiệu phát ra mỗi khi khán giả sử dụng máy truyền hình.
Thống kê định lượng có nhiều khuy ết đi ểm. Phỏng v ấn b ằng điện thoại như Nielsen, Trendex bị coi là tốn kém, làm rộn thiên hạ vào những giờ giấc không thuận tiện (sớ m quá, tr ễ quá), thống kê ghi chép kiểu ARB cũng bắt ng ười ta ghi chép đủ điều, phiền hà rắc rối.Lo ại hồi tưởng như Pals dễ đưa người bị tr ắc nghiệm đến chỗ trả lờ i cho xong việc.Nói chung, điều tra định lượng chỉ có giá trị tương đối vì phiền toái, số mẫu bị giới hạn và kết qu ả điều tra giữa các tổ chức thường bất nhất trí. Do đó, hiện nay ngành quảng cáo đã đi đến chỗ đặt ra một số tiêu chuẩn thống nhất cho điều tra định lượng và bổ sung nó bằng những phương pháp điều tra định tính .
II. ĐIỀU TRA ĐỊNH TÍNH HẬU QUẢNG CÁO
Điề u tra định tính về chương trình tiết mục quảng cáo thường được xoay quanh hai trục chính: đo giá trị tiêu khiển và độ phổ cập thương mại.
1) Đo giá trị tiêu khiển
Tức là kêu g ọi khán giả trả lời xem chỗ nào trong chương trình truyề n đi gây ấn tượng mạnh nhất và chỗ nào cần được t ăng c ường. Phươ ng pháp của A.C. Nielsen đ iều tra trắc nghiệm trên người xem truyền hình trong 1000 nóc gia, coi phản ứng của họ đối với t ừng phút một của một chương trình truyề n hình (xem Bellaire). Ch ủ quảng cáo tiến hành cuộc điều tra này trong khoảng th ời gian mộ t chương trình được phóng ảnh. Họ có th ể tụ họp một số khán giả mẫu ở một nơi nào đó, chiếu cho họ xem chương trình và cứ một phút trôi qua lại ngừng để h ỏi cảm tưở ng của họ. Nhữ ng người này sẽ ghi cảm nghĩ họ với mỗi phút chương trình đã xem là ” hay “, ” vô thưởng vô phạt ” hay ” dở ” vào một tờ ch ấm đi ểm. Họ cũng có thể trả lời ” thích ” hay ” không thích ” bằng cách bấm nút điện. Giá trị tiêu khiển cá nhân sẽ đựơc thành lập sau khi cộng điểm của 30 hay 60 phút chương trình đượ c chiếu. Nhân đọc kết quả tổng hợp này, chủ quảng cáo có thể tìm ra những chỗ nào trong chương trình không lôi cuốn được người xem. Máy đo nói dối (Liar Detector) cũng từng đựơc dùng để đo phản ứng khán giả nhưng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 138/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phản ứng bất th ường của sự tăng giả m huyết áp ghi nhận bởi máy này có thể được giải thích bằng nhiều cách nên chưa chắc đã đem lại kết quả thoả đáng.
Để thăm dò ấn tượng mà chương trình còn lưu lại nơi người xem, ta có thể đưa
họ bảng kê khai một số từ bình phẩm và hỏi họ xem từ nào trên bảng thiết bị
điện tử thoả đáng nhất để đánh giá chương trình vừa chiếu. Đối với một chương
trình tạp hý chẳng hạn, ta có thể đưa ra những từ như sau: “hợp với người lớn,
hơi trẻ con, lộn xộn, thông minh, khó chịu, nhàm chán, có tính giáo dục, biến
hoá nhanh nhẹn, hài hước, kém hài hước, nhiều sáng tạo, hiện thực, lãng mạn,
hồi hộp, hạ cấp, lành mạnh….” Như thế, khán giả có thể trả lời một cách thoải
mái hơn
Một cuốn phim cho dầu ăn khách đến đ âu, vẫn còn có chỗ cần sửa chữa để có hiệu quả tốt hơn nên kết quả của những cuộc điều tra như thế hãy còn có thể giúp ta cải thiện chương trình.
2) Độ hiệu quả thương mại
Hiệu quả này có thể đo bằ ng cách xem nếu đem cùng một phim ng ắn quảng cáo lồng vào hai chương trình truy ền hình khác nhau thì nó sẽ đưa đến hiệu qu ả khác nhau như thế nào. Loại đo này còn có tên gọi “đo bầu không khí” (climate research) tức là xem chương trình nào có thể tiếp nhận một thương điệp với hiệu quả tốt.
Nói chung, người ta nhận thấy một thương điệp có hy vọng thành công nhiều
hơn khi được lồng trong chương trình ăn khách. Cần nhớ là được nhiều người
xem chưa chắc là điều kiện ắt có và đủ để kêu gọi người ta mua hàng. Sự hài hoà
giữa mặt hàng hay tên tuổi của hiệu và nội dung chương trình gởi đến khán giả
là một điều cũng không kém phần quan trọng. Vì lý do trên, hãng Dentsu ở Nhật
đã đề ra một phương pháp tổng hợp gọi là ” Trắc định Cơ Bản Cho Phim
Quảng Cáo Truyền Hình” (Dentsu Basic CM Test) (xem Abe Masakichi),
trong đó mỗi nhân tố liên quan đến sự thành công của thương điệp ( cảm tưởng
về nội dung phim, món hàng trình bày, liên hệ giữa phim và món hàng, ký ức về
những chi tiết trong phim, về món hàng, mức độ ham muốn mua hàng sau khi
xem phim…) đều đựơc đề cập tới. Một trong những thủ pháp đựơc sử dụng là
Đánh Giá Bằng Ngữ Vị (SD hay Semantic Differential) nghĩa là đưa những cặp
tính từ (Ví dụ Cũ-Mới, Nam tính-Nữ tính, Đẹp-Xấu…) để cho người được trắc
nghiệm chấm điểm thương điệp phóng ra theo một nấc thang giá trị gồm 5 bậc (
ví dụ hết sức hay – Hay vừa vừa – Không hay không dở – Dở vừa vừa – Hết sức
dở, chẳng hạn). Qua đó Dentsu lập được bảng đánh giá hình ảnh cuả thương
điệp (Image Profile) nơi người xem. Hãng điều tra Video Research ở Tokyo đã
nghĩ ra Phương thức “Thẻ Đánh Giá Thương Điệp” (TV-CM Karte), một
hình thức đánh giá tổng hợp độ thẩm thấu của thương điệp nơi người xem.
Trước tiên, người ta trình bày 6 hình ảnh (cuts) tiêu biểu và một đoạn âm thanh
của thương điệp cho người được trắc nghiệm và đặt những câu hỏi không chỉ để
đánh giá bản thân nội dung thương điệp mà còn để đánh giá cả các thông tin
ngoại vi có tính cách cá nhân như hình ảnh xí nghiệp, nhãn hiệu và kinh nghiệm
mua hàng đồng loại mà họ có. Các tấm thẻ (Karte, gốc tiếng Đức) này được giữ
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 139/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
gìn lâu dài và đem ra đối chiếu, thống kê…là một nguồn thông tin vô cùng quý giá đối với người sáng tác và quản lý quảng cáo.
Nhật Bản bắt đầ u phóng ảnh truyền hình vào năm 1953 thì qua năm 1954, đài quốc gia đã cho tổ chức những cuộc điều tra t ỷ lệ thính thị bằng lối phỏng-vấn – trực-tiếp-vào-ngày-hôm-sau khi chương trình bắt đầu. Năm 1955, hãng quảng cáo Dentsu dùng phương pháp nh ật ký, qua 1960, chi nhánh của Nielsen ở Nhật đã dùng thu thính kế (Audimeter) và phương pháp nhật ký để đo. Video Research ra đời nă m 1962 lại sử dụng một kiểu đo khác v ới Videometer, phương pháp đo ngoài giờ phát sóng. Trong thập niên 90, máy đ o trở nên tinh vi hơn. Từ 1994, Nielsen Japan đ ã khai thác hai loại máy: Cá Nhân Kế Cấp Một (APM = Active People Meter) va Cá Nhân Kế Cấ p Hai ( PPM = Passive People Meter) để theo dõi hành động người xem.Trong trường hợp trước (máy c ấp một), đối tượng thí nghiệm phải chủ độ ng b ấm nút máy mỗi lần bật hay tắt truyền hình, trường hợp sau, máy tự động làm mọi việc. Nhờ đó, người ta không những có thể đo được độ thính thị của cá nhân, của nóc gia mà còn suy định được số máy truyề n hình mở vào một thời điểm (Sets-in-Use), số nóc gia có máy truyền hình đang sử dụng máy (Households Using Unit hay HUT), tỷ lệ thính thị theo nóc gia trong ngày của mỗi đài, của mỗ i tiết mục truyền hình, cũng nh ư các số liệ u khác như độ đạo đạ t (Reach), thẩm thấu (Reach x Frequency) của nó nữa. Dĩ nhiên, bên cạnh đó, những điều tra định tính cũng cho phép các nhà quảng cáo Nhật Bản biết về bình điểm của chất lượng (Quality Rating) của khán thính giá đối với tiết mục truyền hình và nội dung của quảng cáo.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
SO SÁNH THƯƠNG ĐIỆP TRUYỀN HÌNH VỚI CÁC THƯƠNG ĐIỆP KHÁC. KHẢ NĂNG QUẢNG CÁO HIỆP ĐỒNG. QUẢNG CÁO XUYÊN-VĂN-HÓA.
Khái niệm hiệp đồng hay hỗn hợp rất quan trọ ng trong tiếp thị bở i vì một hành động đơn lẻ dù nhiều cố gắng vẫn không có tác dụng bội thu. Ta thường nghe nói đế n giả thuyết lý thuyết về bố n P (The Four P?s Theory) đề xướng bởi học giả Hoa Kỳ ngành tiếp thị E. Jerome Mc Carthy. Ti ếp Thị Hỗn Hợp (Marketing Mix) và Khuyến mãi Hỗ n Hợp (Promotion Mix) và Quả ng cáo Hỗn Hợp (Advertising Mix) . Tiế p thị hỗn h ợp là những chi ến thu ật ảnh hưởng cùng lúc lên bốn phạm vi liên quan đến người tiêu dùng và thị trường (4P = Product-Physical Distribution-Price-Promotion = Sản phẩm- Trưng bày
- Phân Phối Phẩm Vật -Giá Cả – Khuyến Mãi ). Khuyến mãi (nghĩa rộng) hỗn hợp là sự sử dụng cùng lúc bốn thủ pháp quảng cáo (Advertising- Salesmanship – Sales
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 140/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Promotion- Public Relations = Quả ng cáo ? Bán trực tiế p – Khuyến mãi (nghĩ a hẹp) ?Giao tế xí nghiệp) để hưởng được năng l ực tương thừa (synergy) của nó. Để hiểu rõ lập luận này cần phân biệt khái niệm Khuyế n mãi nghĩa rộng là toàn bộ 4 hoạt độ ng để khuyến khích người mua thêm nhiều và bao gồm cả quảng cáo. Trong khi ấy, khuyến mãi nghĩa h ẹp là những phương pháp triển lãm, gọi điện thoại, trương cờ quạt, tặng giải, xổ số, khấu trừ, giảm giá…. vừa thông tin vừa làm vui lòng khách :
Đồ biểu 14.1: Từ tiếp thị hỗn hợp đến khuyến mại hỗn hợp
Đồ biểu 14.2: Khuyến mãi (nghĩa rộng) hỗn hợp
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 141/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Xuất xứ: Cả hai biểu đồ đều lấy từ Kajiyama (Kokoku Nyumon, Tokyo, 1996)
Dựa trên khái niệm rất năng động về hiệp đồng hay hỗn hợp ấy, người ta đã đưa đến
khái niệm kế hoạch môi thể (media planning) mà ta đã có dịp bàn tới khi nói về công
việc của người chủ quảng cáo, đứng trước ngân sách có hạn, phải dùng số tiền thế nào để
đạt được kết quả tối ưu.Trong những phương sách giải quyết, ta đã thấy nói đến kỹ thuật
hiệp đồng các môi thể (media mix). Đối với truyền hình, trọng tâm của quyển sách này,
điều đó có nghĩa là sử dụng truyền hình hiệp đồng như thế nào đối với các môi thể khác
vậy.
Trong chương II (đồ biểu 2.3) chúng ta đã thử so sánh hiệu năng của quảng cáo qua từng
môi thể và ta nhận ra rằng mọi môi thể có ưu và khuyết điểm riêng. Tuy nhiên, khuynh
hướng trong những năm gần đây cho thấy hình ảnh đã chiếm lấy chỗ của văn tự vì hành
động xem truyền hình đòi hỏi ít cố gắng đối với người xem. Nó lôi cuốn hơn, thời
thượng hơn, nhanh nhẹn hơn, dồi dào hơn và để lại ấn tượng lâu dài hơn. Quần chúng,
nhất là lớp trẻ xem truyền hình nhiều hơn là đọc nhật báo. Mặt khác, hành động xem
truyền hình là một hành động tập thể khi năm, ba người tụ họp với nhau trong phòng
khách của gia đình, bàn tới bàn lui. Cùng lúc, hành động đọc báo có tính cách cá nhân,
đơn lẻ và do đó không khai thác được hiệu ứng sinh động của tập thể. Riêng về quảng
cáo trong tạp chí, nó nhắm vào một quần chúng đặc biệt (người thích đi câu, làm vườn,
phụ nữ theo thời trang…) và lọt ra khỏi tầm tay của người quảng cáo truyền hình cổ điển.
Hơn thế, phạm vi của nó dầu sao cũng bị giới hạn .
Còn nói về bích chương ngoài phố hay những tờ quảng cáo bươm bướ m phát không mà ta thấ y trong hộ p thư mỗi buổi sáng hay lồng trong tờ nhật báo phát mỗi ngày tuy chúng có hình thức đẹp đẽ đầy màu sắc đị a phương, c ục bộ vì nó gầ n gũ i quảng cáo cho những tiệm quán trong khu phố ta đang ở nhưng ít lối cuốn đựơc s ự chú ý, nhiều khi bị vứt đi trước khi thiên hạ để mắt đế n. Trường h ợp của truyền thanh thì hơi khác một chút. Nó có khách hàng riêng của nó và có thể được một số quần chúng đặc biệt yêu thích (ví dụ lớp trẻ yêu nhạc, tài xế taxi hay vận tải đường trường) nhưng nói chung đã thoái trào kể từ khi truyền hình xâm lấn thị trường.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 142/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. VƯƠN TỚI NHỮNG NGƯỜI TIÊU THỤ XA KHUẤT
Để đạt được hiệu quả tối đa, gần đây các nhà quảng cáo đ ã chọn lối sử dụng hiệp đồng các môi thể ví dụ như sử dụng cùng lúc quảng cáo truyền hình và truyền thanh. Nhà nghiên cứu Osugi của đài truyền hình Tokyo đã báo cáo trong tập tài liệu của JNN Data Bank về mộ t chiến dịch rất thành công thực hi ện vào năm 1995 sử dụng quảng cáo truy ền hình và truy ền thanh đồng loạt. Ông đã cho biết không nhữ ng khán thính giả để mắt tới hai thươ ng điệp trên hai môi th ể khác nhau đã có thể nhận diện mặt hàng thêm nhiề u thiện cảm với món hàng và có ý định tiêu dùng rõ rệt hơn. Lố i sử dụng h ỗn h ợp môi th ể (Media Mix) nếu khéo léo (nghĩa là bi ết đ o lường thờ i gian phát thanh hay phóng ảnh và ” trám” được một xó kẹt nào đó mà không môi thể nào dùng tới được (no man land) có thể vừ a đạt được hiệu quả thương mại tốt đẹp hơn v ừa đỡ phải chi tiêu vô lý bởi vì, như chúng ta đều biết, chi phí quảng cáo truy ền hình tốn hơn chi phí quảng cáo truyền thanh gấp bội. Ta hay xem đồ biểu về hiệu quả th ẩm thấ u tố i đa thực hiện trên ngân khoản quảng cáo khác nhau ( do Osugi, JNN Data Bank) với hai môi thể hoặ c xen kẻ (Teaser) hoặ c phóng thanh đi trước truyền hình theo sau (Radio Pre-Campaign) hay truyền hình mở đường cho phóng thanh (Radio Follow):
Đồ biểu 14.3: Độ đạo đạt của quảng cáo đồng loạt tính theo ngân khoản
Tỷ lệ truyền thanh / | Độ đạo đạt (Reach) | Số lần truyền đạt | ||||
Truyền Hình | (Frequency) | |||||
0% : 100% | 85% | 5,9 lần | ||||
20% : 80% | 90% | 6,7 lần | ||||
40% : 60% | 88% | 9,3 lần | ||||
60% : 40% | 86% | 9,3 lần | ||||
80% : 20% | 80% | 11,3 lần | ||||
100%:0% | 60% | 16,7 lần | ||||
Đồ biểu trên cho ta thấy không cần phải tiêu 100% s ố tiền vào truyền hình. Với 20% quảng cáo truyền thanh để kèm 80% truyền hình, độ thẩm thấu đã đạt mức tối đa nghĩa là 90%.
Người Nhật còn làm quả ng cáo hiệp đồng bằng cách sử dụng một số tài tử diễn xuất (tarento) (N). Người này không những đóng vai chính trong các phim quảng cáo truyền hình, mà còn có mặ t trên các bích chương ngoài đường ph ố, trên xe buýt, trong xe điện, tham gia các phòng triển lãm (show room) và nhiều khi ra mắt người tiêu thụ ở các siêu
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 143/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thị nữa. Họ còn có thể ký hợp đồng dài hạn để trở thành tượng trưng (mascott, character) đồng hoá với một hãng buôn hoặc một sản phẩm nào đó (Các nữ diễn viên Fujiwara Norika với Nokia Mobile Phone, Takashima Reiko v ới sake Kizakura…). Chúng ta cũng thấy trường hợ p tương tự xảy ra ở Âu Mỹ (các nữ tài tử điệ n ảnh Elizabeth Hurley với hiệu Mỹ phẩm Revlon và Carole Bouquet với Channel hay cầu thủ David Beckham với Vodafone).
Giữ a thời đại đa môi thể (multi-media), khả năng quên lãng một xó kẹt không với tới hầu như biến mất vì cánh tay bạch tuộc của truyền thông điện tử đa năng đã vươn tới mọi nơi.
II. THỐNG NHẤT NỘI DUNG THƯƠNG ĐIỆP
Kỹ thuật đa môi thể giúp ta đột phá mọi biên giới vật chất nh ưng cũng nhờ nó chúng ta phá được biên giớ i chia cách tân hồn con người. Điề u này có nghĩa là mọi thươ ng đi ệp phải tìm được thế bình quân giữa trí óc (kỹ thuật) và con tim (văn hoá, đạo lý) . Trên con đường tìm đến hình thái thương điệp có tính cách toàn cầ u, T. Yamaki (1994) đặt giả thuyết về hình thái tương đồng văn hoá của những nhóm thương đi ệp. Trước tiên, nhà nghiên cứu Nhật Bả n này đã thử chia 19 quốc gia thành năm nhóm “tương cận” theo những phạm trù địa lý, tôn giáo, ngôn ngữ, lịch sử, phong tục…Yamaki gọi nó là những “nhóm (N) tương đồng trên tiêu chuẩn quảng cáo”(con số nằm trong ngoặc là số thương điệp khảo sát):
N1: Nhật (750), Đại Hàn (75), Đài Loan(104), (Trung Quốc (112)
N2: Thái-Lan (100), Ma-lay-xia (93), Ấn Độ (113)
N3: Ả-rập Xê-u-dít (63), Tuy-ni-di 850), Hy-lạp (70)
N4 : Hoa-Kỳ (78), Anh (100), Hoà-Lan (100), Đức (100)
N5: Pháp (10), YÙ (118), Thuỵ-sĩ (100), Bra-zin (100), Mê-hi-cô (100)
Dườ ng như Yamaki đã có ý qui tụ các quốc gia Á châu chịu ảnh hưở ng văn hoá Trung Hoa trong nhóm 1 (N1), các quốc gia văn minh Ấn-độ trong nhóm 2 (G2), Các quốc gia truyề n thống Hồi Giáo trong nhóm 3 (N3), Các quốc gia Anh- Xắc-Xông trong nhóm 4 (N4) và các quốc gia vă n hoá la-tinh trong nhóm 5 (N5). Tiêu chuẩn sắp xếp các quố c gia vào 5 nhóm nói trên khá hợ p lý như ng ta không khỏi thấy sự tương đối củ a nó vì Thuỵ Sĩ có thể đặt đượ c cả vào nhóm 4 hay nhóm 5.Còn sắp xếp Hy-Lạp vào nhóm nào là một vấn đề khó giải quyết cho ưng ý.
Công việc phân tích các thương điệp được dựa trên 9 tiêu chuẩn đánh giá theo hai cực đối kháng dương (+) và âm (-) :
- Thương điệp trực tiếp ( +) hay thương điệp gián tiếp ( -)
- Quảng cáo sản phẩm (+) hay đề cao danh tiếng xí nghiệp (-)
- Quảng cáo sản phẩm kỹ nghệ (+) hay hàng tiêu dùng (-)
- Một nhân vật diễn xuất (+) hay nhiều nhân vật diễn xuất(-)
- Phim quay ở phim trường (+) hay ngoài trời (-)
- Thông điệp lôi cuốn (+) hay không lôi cuốn (-)
- Phân biệt tuổi tác, phái tính (+) hay không phân biệt (-)
- Cảnh vật thiên nhiên (+) hay cảnh vật giả tạo (-)
- Có lời giải thích (+) hay không giải thích (-)
Quảng cáo mỗi nước sẽ được chấm điểm để xem nó có trùng hợp với giả thiết đặt ra là
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 144/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
những nước trong cùng một nhóm phả i có đ iểm số giố ng nhau. Mỗ i khi có sự khác biệt, bắt buộc phả i tìm hiểu lý do. Dĩ nhiên trong việc phân tích, ta phả i chạm trán bức tường ngôn ngữ và văn hoá. Ngoài ra còn có những tương tự giả tạo khi nó kết hợp các quốc gia cựu thuộc địa với các nước cai trị thời ấy (Tuy-ni-di có thể giống Pháp và Ma-lay-xia có thể gần với Anh. Đó là chưa kể biết bao nhiêu yếu tố chính trị: Mỹ có thể gần gũi Nhật Bản và Đài Loan hơn là Trung Quốc tuy ba lãnh thổ sau này cùng ở Á châu…).
Cho dù phương pháp của Yamaki chưa được hoàn toàn thỏa đáng, ông đáng được lưu ý vì nh ững nỗ lự c khai đường mở lối cho những nhà nghiên cứu về sau. Sau đây là một số nhận xét được Yamaki ghi nhận:
- Trung Quốc, Hy Lạp, Ma-lay-xia có khuynh hướng phóng những thuông điệp theo lối trực tiếp (nói thẳng vào vấn đề) như những quốc gia Âu Châu (YÙ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ). Tuy cùng sử dụng một hình thức, lý do đưa đến đó lại khác nhau.Lý do của ba nước nói trên là vì kỹ nghệ quảng cáo hay còn ở giai đoạn thành hình hay do nỗi e sợ quảng cáo gián tiếp ăn nói bóng gió gây hiểu lầm lung lạc quần chúng. Trong khi ấy, ở bốn nước sau, lề lối ăn ngay nói thẳng đã nằm vào trong sinh hoạt thường nhật của họ.
- Những nước và lãnh thổ Á Châu như Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc hay Nhật Bản( với ngoại lệ là Hy Lạp) xem công tác tài bồi thanh danh xí nghiệp là mục đích chính của quảng cáo thương mại. Những quốc gia Âu châu (trong đó có Đức, Anh, Pháp, Thụy Sĩ, YÙ) lấy thương phẩm làm đích nhắm ưu tiên.Lý do là theo quan niệm thông thường ở Á Đông, tình cảm và trực giác được đặt trước lý tính và luận lý cho nên người ta mua hàng vì tiếng tăm của người sản xuất hơn là vì nội dung của món hàng. Điều này không khéo lại đâm ra mâu thuẫn vì Yamaki cũng thấy quảng cáo ở hai quốc gia Á châu là Thái Lan và Ma-lay-xia lại có khuynh hướng giống Âu Châu.
- Những quốc gia trên đường phát triển (Mê-hi-cô, Thái, Tuy-ni-di, Ma-lay-xia)
thường nghiêng về quảng cáo có tính chất công ích trong khi những nước tiên tiến (Mỹ, Nhật, Âu Châu) dồn hết sức vào quảng cáo khuyến khích tiêu thụ.
- Nhân vật lên màn ảnh rất đông đảo trong trường hợp các quốc gia trên đường phát triển (Bra-zin, Ấn Độ, Mê-hi-cô chẳng hạn) trong khi đó ở Thụy Sĩ, Đức, Pháp , Nhật Mỹ (với môt ngoại lệ là Trung Quốc), số nhân vật trong phim lại có phần thưa thớt hơn. Yamaki tự đặt câu hỏi phải chăng ngoại lệ ở Trung Quốc phản ánh chính sách ” hạn chế sinh đẻ ” của nhà nước ?
•
•
•
Pháp, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc chuộng đề-co trong nhà trong khi Hoà-Lan, Mê-hi-cô, Anh, Bra-zin thường quay phim ngoài trời.
Thươ ng điệp Ả-r ập Xê-u-đít, Tuy-ni-di và Thái Lan nặng về tôn giáo trong khi Nhật Bản, Phap, Anh có khuynh hướng thế tục.
Trái ngược vớ i những quố c gia hay lãnh thổ như Nhật, Thụ y Sĩ, Ấn Độ, Đài Loan mà đích nhắm của thương điệp là đại chúng, Thái Lan, Hy Lạp, Mê-hi-cô, Bra-zin nhắm đặc biệt vào khán thính giả trẻ và nam giới.
- Thương điệp của Hàn Quôc, Ả-Rập Xê-U-Đít, Tuy-Ni-di và Pháp có nhiều hình ảnh đồng quê (núi non, biển cả, thú vật) trong khi ở Hoà Lan, Đức, Mỹ, thương
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 145/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
điệp có bối cảnh sinh hoạt thành thị (công viên, phố xá).
- Lối thuật sự (narration) thường được dùng trong thương Hy Lạp, Bra-zin và Anh. Trung Quốc, Đài Loan, Thái và sử dụng loại tiếp cận này.
điệp của Đức, Mê hi-cô, Ma-lay-xia không mấy
Chừng ấy dữ liệu vẫn chưa cho phép chúng ta đi đến một kết luận thỏa đáng nhưng việc
làm của giáo sư T.Yamaki đáng được tán thưởng vì qua đó, ông đã đặt cho ta câu hỏi: có
thể nào làm ra được một loại quảng cáo truyền hình có tính chất địa vực liên quốc gia
(regional TV Ads) hay chia sẻ tính chất văn hóa chung (TV Ads for homogeneous
culture ) để có thể phóng ra trong một khu vực địa lý rộng rãi và vượt biên giới một
nước. Sự thống nhất các thị trường do toàn cầu hoá có thể đẻ ra một loại người tiêu thụ
(hay người sinh hoạt nếu ta không thích dùng chử tiêu thụ) mà ta có thể gán cho những
cái tên như: người tiêu thụ Âu châu, người tiêu thụ Á Châu khu vực văn hoá Trung Hoa,
người tiêu thụ Á Châu khu vực văn hoá Ấn Độ, người tiêu thụ Hồi Giáo…
- một trình độ cao hơn, Yamaki đã soi đường để chúng ta có thể dự phòng việc chế tác các thương điệp quảng cáo xuyên-văn-hóa (transcultural TV Ads) nếu chúng ta để ý là giữa Ấn Độ (bán đại lục, văn hoá Ấn Giáo) và Hy Lạp (bán đảo, văn hoá Cổ Âu Châu) , giữa Nhật Bản (đảo quốc, văn hoá Thần Đạo và Nho Giáo) và Mỹ (đại lục, văn hoá WASP hay White-Anglo-Saxon-Protestant = Da Trắng, Ang-lô-Xắc Xông, Tin Lành) lại có những quan điểm tương tự về giá trị. Do những tình cờ của lịch sử, đại đế Hy Lạp A-léc-zan-đơ (Alexander) đã chẳng đến tận bờ sông Hằng và để lại một phần toán quân viễn chinh của mình lập quốc ở đó là gì? Cũng thế, sau thế chiến thứ hai, nước Nhật bại trận đã bị thu hút bởi người thắng trận là Hoa Kỳ và lối sống Mỹ. Ngoài ra, trên một bình diện khác, ta còn thấy tiểu thuyết chương hồi truyền hình ” O-Shin ” miêu tả cuộc đời cơ cực gian truân nhưng can trường của một người con gái Nhật đã được bán đi trên 44 quốc gia vì ở đó (Á Châu và Phi Châu), có những người xem có khả năng thông cảm được với nhân vật chính trong phim. Người Việt Nam chúng ta sa nước mắt khi xem phim tuồng Ấn Độ với những tình tiết trung,hiếu,tiết,nghĩa,tuy hãy còn thô vụng, “cải lương”. Gần đây, ta lại chuộng phim Nam Mỹ (Người giàu cũng khóc) và Pháp (Nữ thanh tra cảnh sát Lescaut) vì ta có với họ một số điểm chung nào đó.
Trong khi chờ đợi sự xuất hiện của nh ững chương trình quảng cáo có tính chất toàn cầu đang được thai nghén, chúng ta có thể lướt nhanh qua đề tài nghiên cứu của nhóm ông Yasukawa (dẫn bởi T. Tanaka, 2000). Chúng tôi muốn nói đến việc thành lập một ngân hàng dữ liệu (Data Base) ở Tokyo vào năm 1998 nhằm xếp loại những chữ cái (Key – Words) trong các thương điệp truyền hình để tìm ra ả nh hưởng hỗ t ương giữa yếu tố hình ảnh và yếu tố ngôn ngữ. Một mục đích khác của ch ương trình này là nghiên cứu khả năng đa dạng hoá v ề ngữ vị củ a diễn tả trong quảng cáo. Nếu thí nghiệm này thành công, trong tương lai ta có thể sản xuấ t hàng loạt những phim quảng cáo với chủ đề giống nhau nhưng biểu diễn dưới dạng khác nhau. Nó giúp ta đỡ tốn rất nhiều chi phí chế tác. Hơn nữ a, chỉ có lối chế tác như th ế này mới thúc đẩy thị trường toàn cầu hoá một cách nhanh chóng (Xin hiểu toàn cầu hóa trong nghĩa tốt của nó là khai phóng biên cương kinh tế trong bình đẳng và lợi- kỹ- lợi-tha chứ không phải toàn cầu hoá toàn trị bởi nước lớn và các tập đoàn kinh doanh đại qui mô).
Tuy vậy, có những ý kiến cẩn thận và dè dặt như của Moriaty, Duncan (1991, dẫn bởi T.Tanaka, sdd) khi họ khuyên không nên quá phân biệt thương điệp toàn cầu với thương
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 146/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
điệp địa vực. Không thể để cái thứ nhất lại loại cái thứ hai đượ c. Nó phải tồn tại song song v ới nhau và cuối cùng giá trị đích th ực của thương phẩm vẫn phả i là trung tâm của sự lựa chọn của khách hàng. Theo ý kiến của Onkivist và Shan (1990, dẫn b ởi T.Tanaka, sđd) , ít khi ta thấy có thương điệp nào đáng mệnh danh là thương điệp toàn cầu.
Trong những nghiên cứu về hình thái của cốt truyện trong phim quảng cáo truyền hình,
một lĩnh vực nghiên cứu đắc ý của các nhà cấu trúc học Pháp (trong đó có Jacques
Durand, ân sư của thuật giả), nhóm các ông T.Ogata va K.Watanabe (1994,1995) là
những học giả Nhật Bản đã đặt vấn đề về việc “tạo khung mẫu” cho thương điệp truyền
hình. Dự án của họ mang tên “Hệ Thống Tổng Hợp Trợ Giúp Cho Tiếp Thị và Quảng
cáo”(MAISS = Marketing Advertising Integrated Support System) và xem nó như là một
công cụ để trả lời cho thách thức “Có thể nào sáng tác thương điệp truyền hình từ cơ sở
của thông minh nhân tạo (artificial intelligence) không?”
Hai nhà nghiên cứu của chúng ta đã lập giả thiết như sau (xem mô hình):
Khởi thủ y d ựa trên quan hệ tay ba giữa Con người (trong trường hợp này là người tiêu thụ), Đồ vật (s ản phẩm) và Hành động (tiêu dùng), ta đã có thể tạo dự ng nên một “cảnh đời” (LS=Life Scene) vừ a đơn sơ vừa có thực mà ta chắ c chắn đã gặp đâu đó (Cả nh Đời Thườ ng hay VLS=Valid Life Scene).Pha lẫn với những khái ni ệm có trong số dữ liệu quản lý bởi người tiếp thị (và dĩ nhiên là đòi h ỏi bởi anh ta), ta có thể t ạo ra Cảnh Đời Đề Nghị (PLS=Proposed Life Scene) v ới một số tình ti ết khúc mắc và đị nh h ướng hơn. So với Cảnh Đờ i Thường thì nó đ ã đầy đủ bài bản hơn nhiều. Bây gi ờ ta mới đem “nhúng “nó vào trong Ngân Hàng Dữ Liệu về Cốt Truyện của người sáng tác chuyên nghi ệp và thao tác với những chỉ thị (ch ẳng hạ n như cho phép hay nghiêm cấm mộ t dữ kiện nào đó) của ta để máy đi ện toán có thể đẻ một loạt những cảnh đời được sáng chế ra ( CS=Creative Scene) để cho ta tự do lựa chọn.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 147/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- kiến của Ogata và Watanabe có thể xem như nối dài ý của Jacques Durand đề nghị từ những năm 1970 dưới dạng thô sơ hơn (chỉ là mô hình toán học và chưa có sự tham dự của máy tính). Công trình hai ông cũng được coi như là sự tiếp nối những thành quả đặt trong lãnh vực nghiên cứu về nếp sống của người tiêu thụ (Katahira, 1987), về hình thái thương điệp (Rumelhat, 1975, Schank, 1977, Lehnert, 1989), về đối thoại trong câu truyện (Abe, 1994, Grosz, 1990, dẫn bởi Ogata, sđd). Sự đa-sản hóa các thương điệp truyền hình có thể hợp thời đúng lúc vì con số đài truyền hình ngày càng gia tăng, lối sống càng ngày càng phong phú, phân tiết thị trường càng ngày càng chia vụn và sự tiêu dùng đã đến mức độ bảo hòa nên cần người ta cần đi tìm cả trong bản thân quảng cáo những điều mới lạ.
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
BIỂU HIỆN NGOẠI KIẾN
VÀ NỘI DUNG TIỀM ẨN
Quảng cáo bao gồm hai yếu tố, hình thức và nội dung. Thương điệp vừa có
biểu hiện ngoại kiến (outward appearance) là cái ngườ i ta nhìn thấy dễ dàng và nội dung ti ềm ẩn (hidden message), cái người ta tiếp nhận mà không ngờ tới. Nhiều khi nội dung tiềm ẩn đó lại được quyết định bằng những yếu tố hình thức, có chủ tâm hay không của ngườ i làm quảng cáo. Những yếu tố này liên quan chặt chẽ với môi trường văn hóa của người sáng tạ o thương điệp qu ảng cáo lẫn đối tượng của nó. Cơ bản là ngôn ngữ (nói, viết, biể u tượng), đặc điểm của thương phẩm (product attributes), người mẫu diễn xuất (models, characters), khung cảnh sân khấu(scenic background), màu sắc và âm nhạc.
- VAI TRÒ CỦA TU TỪ HỌC (RHETORICS) TRONG QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
Từ xưa, trong nền văn minh Hy-La, khoa tu từ học (Rhetorics) được coi như một môn học căn bản bởi vì ” học ăn, học nói ” là điểm khởi đầu củ a sự giao lưu với người chung quanh.Các nhà tôn giáo như Giê-xu, Thích ca, các nhà triết lý như Trang Tử , Khổng từ đều thích dùng hình thức tu từ như tỷ dụ, ng ụ ngôn để giải thích tư tưởng củ a mình.Trung quố c cũng có khoa biện luậ n, từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đ ã có bao nhiêu nhà hùng biện như Tô Tần, Trương Nghi, Lịch Sinh, Mao Toại… ” uốn ba tấ c lưỡi ” đi thuyết phục các vua chư hầu, đưa ra thí dụ để nói lên những đ iều l ợi hại. Trong lĩnh vực quảng cáo truyền hình, vai trò của tu từ họ c v ề ả nh tượ ng (Visual Rhetorics) là một môn học cần thi ết vì hình ảnh là cơ sở truyền đạt tình cảm và ý tưởng. Một hình ảnh không chỉ là yếu tố đơn thuần nh ưng nó còn tượng trưng cho những qui uớc xã hội được chấp nhận bởi những người sinh ra và lớn lên trong một
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 148/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
địa vực văn hóa nào đ ó.Theo L.Scott (1994), hình ả nh trong quảng cáo không chỉ là ghi chép (copy) sự vật mà còn là trình bày nó một cách văn hóa bóng bẩy (trope).Giữa mùa hè nóng bức, đưa ra (copy) hình ả nh một thỏi son, một tuýp kem thoa mặt dù đẹp đến đâu ch ưa h ẳn có hiệu quả bằng cách làm ng ược đời như bỏ hai thứ đó vào trong một cốc sô da chanh sủi tăm và mát lạnh (trope). Dùng phương pháp thứ hai này, không những ta tránh cho người xem quảng cáo s ự nhàm chán, nghi ngờ hay cưỡng lạ i thương điệp mà còn gây cho họ ngạ c nhiên thích thú vì giữa ngày hè mà thỏi son, tuýp kem trong quảng cáo đưa đến cho họ sự tươi mát tượng trưng bằng cốc nước giải khát.
Từ thập kỷ 1970, đã có nhi ều trường phái nghiên cứu về hiệu quả tâm lý của ảnh tượng trong quảng cáo đối với khán thính giả. L. Scott đã kể đến 3 khuynh hướng :
-Khuynh hướng nghiên cứu thực nghiệ m (Experimental Studies), dùng những phương pháp đo lường phản ứng tình cảm (thích thú / bực dọc) trước hình ảnh được đưa ra (phương thức Điều Kiện Phản Xạ hay Classical Conditionning / Affective Response) hoặc khảo sát diễn tiế n quá trình nhận thức và ghi nhớ thông tin (Information Processing) nhận từ một ảnh tượng để xem phẩm lượ ng và điều kiện thông tin của hình ảnh khác với phẩm lượng thông tin bằng ngôn ngữ hay văn tự như thế nào.
-Khuynh hướng nghiên cứu miêu tả (Descriptive Studies) vừa bao gồm
những nghiên cứu về các nhân tố có tính cách máy móc (Mechanical Elements)
như thể khối, đường nét, màu sắc, đồ thị, họa chất, mẫu chữ in…nghĩa là những
biến số ngoài nội dung biểu thị (Non Message Variables) vừa bao gồm những
nghiên cứu phân tích nội dung (Content Analysis). Khuynh hướng nghiên cứu
sau này nhằm thống kê (Simple Counts) những hình ảnh (Visual Coding) và đề
tài (Thematic Coding) nào đã được đưa ra trong quảng cáo để xem những mẫu
cố định (Stereotypes) trong quảng cáo đã được hình thành như thế nào. Nó
cũng có mục đích so sánh độ chênh lệch giữa sự vật trong thực tế và lúc sự vật
ấy được trình bày dưới dạng quảng cáo.
-Khuynh hướng nghiên cứu dẫn giải (Interpretive Studies) phân tích hình ảnh quảng cáo d ựa trên cơ sở ký hiệu luận (Semiotics) để quan sát nó như một ảnh hiệu (Iconic Signs) hoặc như một hiệ n t ượng xã hội. Những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này, đặc biệt các lý thuyết gia thuộc trường phái cấu trúc (Structuralism) phân biệt vai trò ngoạ i biểu (denotation) và nộ i hàm (connotation) của một ký hiệu, cả hai đều có thể giúp chúng ta tìm hiểu v ề một thương điệp. Nghiên cứ u dẫn giải còn đi xa h ơn qua những phê phán của nó về tác dụng của quảng cáo đối với xã hội và văn hóa
Sở dĩ người ta dùng tu từ h ọc trong quảng cáo truyền hình vì quảng cáo “trực tiếp”, cơ giới, dựa trên h ọc thuyế t “phản xạ có đ iều kiện” c ủa Pavlov (tiếng chuông reo làm con chó rõ nước dãi) của những nă m 1940 quá nghèo nàn và có quá nhiều hạn chế để có thể đạt đượ c hiệu quả như ý. Người ta cần một loại quảng cáo “gián ti ếp”, g ợi ý, tinh vi h ơn.Y như Claude Marcus Steiff (trích dẫn bởi F. Balle), một trong những người cộng tác đầu tiên của hãng quảng cáo nổi
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 149/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
tiếng Publicis, đ ã phát biểu: “Người ta không bán quả cam như ng người ta bán sức khỏe, người ta không bán kem bôi mặt nh ưng bán hy vọng, người ta không bán một phương tiện di chuyển nh ưng bán sự chấp nhậ n được gia nhập vào một tầng lớn xã hộ i ưu đãi” . Nhà quảng cáo không thể làm ngơ trước những ướ c muốn của con người, ước muốn nhiều khi không hợp lý của tình động, của hư vinh.
Tác giả Gia nã đại L. Dupont khi viết về những hình ảnh có hiệu lực làm người ta mua hàng đã dẫn ra nh ững hình ảnh được sử dụng trong môi trườ ng Bắc Mỹ. Theo ông, cảnh một thác nước rất hợp với quảng cáo sự mát mẻ mà mộ t hiệu bia có thể đem lại cho ta, một con tuấn mã phi n ước đại biểu hiện được năng lượng của một hãng dầu khí (Mobile), ngọn núi Mont Rushmore có t ạc hình mấy vị tổng thống và tượng Nữ Thần Tự Do ở New York đều tượ ng trưng được cho nướ c Mỹ. Ngoài ra, người ta liên kết được hình ảnh c ủa con gấu vớ i sự d ũng c ảm, con sói với dự giảo ho ạt, con lạc đ à và sự b ền bỉ , nhẫ n nại, con gấu và sự tham bạo… Đối với ông, ” quả ng cáo, như mọi hình thức thuyết phục, phải là một lối truyền thông rất sơ khai, không nên sử dụng lý luận cao kỳ “.
II. KÝ HIỆU LUẬN VÀ QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
Ký hiệ u luận (Semiotics) đặt trọng tâm vào vai trò của hình th ức trong việc truyền đạt nội dung một thương điệp, nếu không bảo nó chính là yếu tố quyết định của nội dung. Ký hiệu luận đề cao vai trò xã h ội c ủa ký hi ệu nh ư trường hợp của Ferdinand de Saussure, hay vai trò lý luận của nó nh ư trong tr ường hợp của Charles Pierce. Ngoài những yếu tố truyền thống có tính cách ngôn ngữ còn có nhữ ng yếu tố phi ngôn nhữ như hình ảnh, văn t ự, văn phạm, diễn tiến cốt truy ện, màu sắc, âm thanh, khổ hình, khổ chữ, cách thu hình và cách ghép hình… Để hiểu nhữ ng ” yếu tố không lờ i ” này, ng ười xem phim quảng cáo phải tự mình có một hệ thống ký hiệu để nương tựa vào mà “giải thích” được chúng.
Trong những nhà nghiên cứu v ề ký hi ệu hiện đạ i, ta có thể xem Roland Barthes như người tiên phong có nhiều uy tín nh ất. Ông đã nghiên cứu về những “huyền thoại ” (myths) củ a thời đại mới (mì Ý Panzani, bơ Astra và môn đấu vật Wrestling là những ví dụ cụ thể) và tìm ra cơ sở để nghiên cứu khoa quảng cáo (xin xem thêm Barthes). Sau ông ph ải kể đến trường phái điện ảnh Pháp với những nhà nghiên cứu tên tuổ i khác như Christian Metz, Peninou và De Pasquier. Metz có lần bảo ” trong hình ảnh có nhữ nh yếu tố không thấy được và có nhữ ng hình ảnh lại tìm ra ở ngoài hình ảnh” (Tout n’est pas icônique dans l’icône, et il y a d’icône hors d’elle). Một nhà nghiên cứ u độc sáng là Jacques Durand ở Việ n Pháp Qu ốc Báo Chí (IFP), từ n ăm 1970 đã nghỉ đế n việc lập nên một khoa tu từ học hình thức (rhétorique formelle) để có thể tự động hóa việc chế tạo nh ững khung truyện bằng những yếu tố định lượng, sau này sẽ có ảnh hưởng đến việc chế tác hàng loạt phim quảng cáo.
Mỗi câu truyện đều theo mộ t cấu trúc nào đó và mỗi yếu tố của câu truy ện đều có một ý nghĩa tượng trưng. Vladimir Propp đã nghiên cứu cấu trúc của truyện
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 150/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
cổ dân tộc Nga và tìm ra một số định luật. Thật vậy, truyện Thạch Sanh Chém
Chằn, truyện Con Khỉ Thần Thông (như con khỉ trong Trường Ca Ramanaya
hay Tôn Hành Giả của Tây Du Ký chẳng hạn là những mô típ phổ biến trong
dân thoại (folklore) của nhiều dân tộc. Sau Propp, nhiều người đã sử dụng thủ
pháp này trong nhiều lĩnh vực khác nhau ví dụ T. Todorov trong tiểu thuyết,
N.Ruwet trong thi ca, Umberto Eco trong băng truyện. Phim quảng cáo truyền
hình thường được thực hiện dưới hình thức một câu chuyện tuy hết sức ngắn
nhưng cũng phải có cốt truyện hay một sự liên tục nào đó trong chuỗi lý luận
của nó. R. Barthes (1966) bảo ” một là nó chỉ là một mớ dữ kiện chẳng ăn nhập
vào đâu hay nó phải có một cấu trúc nào đó cho phép ta phân tích và so sánh
được với những câu truyện khác“. Truyện phim quảng cáo cũng gần giống như
một truyện thần tiên hay dân thoại vì nó cũng có tính chất mơ mộng và nhiều
khi phi hiện thực. Chỉ vì lý do kinh tế (khi người ta không đủ tiền để làm một
phim quảng cáo dài) và lý do vật lý (như độ chú ý của người xem) chứ một
người nghiên cứu bén nhạy vẫn có thể nhìn qua đoạn phim dù ngắn ngủi những
yếu tố hình thức chung để xếp loại chúng. A. Greimas (1966) cũng chủ trương
rằng những yếu tố định lượng có thể tạo thành một cái khung hình thức cho câu
chuyện và độc lập với nội dung của truyện phim. Ch. Metz còn cho rằng có
một loại văn phạm trong điện ảnh (grammaire cinématographique) (P) làm
cho mỗi động tác của người làm phim, mỗi cách vận dụng kỹ thuật quay hay
ghép hình đều có ý nghĩa riêng của nó
Lý luận của trường phái cấu trúc (Structuralisme) (P) bắt đầu có ảnh hưởng ở
Nhật Bản trong lãnh vực quảng cáo từ những năm 80. Tác phẩm của R. Barthes
lần lược được dịch ra tiếng Nhật. Những từ chuyên môn như “ngoại hình của
ký hiệu ” (signifiant) (P) , ” nội dung của ký hiệu ” (signifié) (P), ” ngoại kiến “
(dénotation ) (P), ” nội hàm ” (connotation) (P) dần dần được quen dùng.
Người ta không chỉ dừng lại ở ký hiệu. Những nhà nghiên cứu bắt đầu đặt câu
hỏi phải chăng vai trò của người tiếp nhận ký hiệu mới quan trọng hơn chính
ký hiệu và sự huấn luyện người xem để họ có thể hiểu và đánh giá ký hiệu là
một điều quan trọng hơn nữa. Người xem phải biết tường tận hệ thống kỹ thuật
của ký hiệu (semiotic technics system). Những kiểu phóng đại, khoa trương,
cắt xén, thu gọn, tượng trưng hóa, nhân cách hóa, giản dị hóa, lặp đi lặp lại
(theo T.Kobayashi (1996) hay triệt để sử dụng vai trò của ký ức con người
(theo Judith Williamson, tác giả cuốn Decoding Advertisement, 1978), liên
kết hình ảnh với ký ức qua những thủ pháp tu từ (bóng gió, thậm xưng, mâu
thuẩn, yêu ngôn, phi lý…) là những yếu tố giúp người xem tiếp cận ký hiệu.
Nhà nghiên cứu Godooka (1983) đã dẫn ra 36 tiêu chuẩn kỹ thuật âm thanh, 49
tiêu chuẩn về nội dung, 9 tiêu chuẩn về kỹ thuật diễn xuất, 19 qui chuẩn về
diễn viên. Đưa ta những con số trên, người viết chỉ muốn nói rằng khả năng
chế biến của người làm phim quảng cáo truyền hình thật là phong phú. Đó là
chưa kể khuynh hướng dùng thủ pháp “bình thường hóa quảng cáo”
(banalisation de la publicité, place-based ad, blurring) nghĩa là trộn lẫn quảng
cáo với những yếu tố thực sự của đời sống hàng ngày (ví dụ cho chiếu một
phim truyện xen kẻ bằng những đoạn phim quảng cáo, dùng cùng một diễn
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 151/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
viên cho cả 2 loại phim và không báo tr ước cho khán giả phầ n phim qu ảng cáo chỉ là quảng cáo), khiến cho người xem không còn phân biệt đượ c biên giới giữa hư và thực. Sự “nhập nhằng đánh lận con đen” này hiện nay vẫn bị phê pháp vì tính cách phi luân lý của nó.
- NHỮNG YẾU TỐ TU TỪ CỦA PHIM QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH 1) Ẩn dụ(Metaphor)
Ẩn dụ là hình thức ví von, nói xa nói gần, khác v ới Trự c Dụ hay nói thẳng (Simile : A là B), Ẩn dụ (Metaphor: A giống nh ư B) nằm trong nhóm nh ững kỹ thuật hành văn có mục đích giúp cho người ta liên tưở ng được từ một vật (hay sự kiện) này đến một v ật (hay sự kiện) khác. Những kỹ thuật ấy là so sánh (comparison), ngụ ý (allegory), nhân cách hóa (personnification), đại dụ (synecdoche), hoán dụ (metonymy), dẫn dụ (allusion), khoa đại (hyperbole), nghĩ thanh (onomatopoeia). M. Koyasu (1988) trong công trình nghiên cứu v ề thể lo ại này trong phim quảng cáo truyền hình ở Nhật tạm chia ẩn dụ mà ông gặp được làm ba loại chính
–Ẩn dụ ngôn ng ữ (43,2%) đây là loại ẩ n dụ thường thấy nh ất.Ví d ụ một hãng khai thác dầu l ửa đã dùng khẩu hiệu ” Bùng lên ” (Moretsu) để nói về sự làn ăn thịnh vượng của hãng mình.
–Ẩn dụ ảnh tượng (27,6%) ví dụ như mộ t hãng bia hơi sử dụng hình ảnh tươi mát, tự do của một con cá voi biết bay đang phun bọt.
–Ẩn dụ âm nhạc (3,1%) Love của phim gián điệp Bangkok-Moscow.
ví dụ một hãng hàng không cho chơi bả n From Russia With James Bond 007 khi khánh thành tuyến đường London-
Tuy nhiên những lối ẩn dụ này phần lớn được pha trộn và dùng chung với nhau để đạt hiệu quả lớn. Một điều đáng chú ý là những ẩn dụ sáo, khuôn mòn sẽ trở thành những ẩn dụ chết, đông cứng (Dead Metaphor, Frozen Metaphor) và mất đi sức thuyết phục.
Thuật giả (Đào Hữu Dũng, 1999) đã có cơ hội quan sát và x ếp loại 586 phim quảng cáo truy ền hình Nhật bản trong lúc nghiên cứu tại thư viện hãng Dentsu ở Tokyo. Kết quả cho biết phần lớn các ẩn dụ thường thuộc vào nhóm ẩn dụ ngôn nhữ và ẩn dụ ảnh tượng.
Ẩn d ụ ngôn ng ữ được biểu hiện qua nhãn hiệu (Brand) và phiêu ngữ (Catchphrase), các hình thức chơi chữ. Vương vị (Royalty) tượng trưng cho sự cao cả, tiên tiến hay tuyệt vời. Hãng rượu huýt-ky Suntory đặt tên cho rượu mình là Royal (Hoàng Gia), hãng Matsushita gọi máy truyền hình của mình là Ga-o (Họa Vương = Vua Hình Ảnh), hãng Gekkeikan (Nguyệ t Qu ế Quan = Vòng Nguyệt Quế tượng trưng cho vinh quang, được gắn lên đầu những nhà lãnh đạo hay ngườ i thắng cuộc thời Cổ La Mã ) bán rượ u Sake mang cùng tên. Sức mạnh và sự kiên trì trong thể thao g ắn liền với ước muốn thành công. Long Jump (Nhảy Xa) là một ẩ n dụ dùng cho Rank Xerox (máy chụp ảnh văn thư), Footwork (Khéo Chân) là ẩ n dụ của Canon (máy ảnh) và Ligne Droite (Tới đích) tượng trưng cho Bridgestone (vỏ ruột ô-tô). Tuy vậy, các ẩn dụ ngôn ngữ hay âm nhạc ít
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 152/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
khi được dùng riêng lẻ nhưng thường kết hợp với ẩn dụ ảnh tượng để tăng hiệu năng.
Loại ẩn dụ ảnh tượng có rất nhiều và được dùng thường xuyên. Hình ảnh hoa mãn khai
(và những biến thể của nó như pháo bông, cờ quạt, dù mở tung) biểu hiện được sự phát
triển và hội tụ (của nhóm hiệu ăn Pizza-La, hiệu máy ảnh Olympus), hình ảnh chiếccầu
nói lên dự gắn bó và liện hệ giữa người với người (nhật báo Asahi, đường sắt Tokaido),
gia đình dĩ nhiên là biểu tượng của hạnh phúc đầm ấm (hãng gia vị Ajinomoto, hãng
may mặc Wacoal). Ánh sáng gợi cho ta sự sống động dùng để giới thiệu những sản
phẩm thuộc ngành điện có thể coi như là điều dĩ nhiên. Ngược lại, các phương tiện giao
thông như tàu hỏa, máy bay được gắn liền với khái niệm tự do. Các hãng Coca Cola,
Matsushita là những hãng bán sản phẩm không liên hệ gì đến vấn đề giao thông vận
chuyển mà cũng dùng đến nó. Đã đành sâu bọ, vi khuẩn biểu tượng cho những tai hại,
đối tượng thù địch của các hãng dược phẩm hay thuốc tẩy giữ vệ sinh trong nhà nhưng
quả trứng có khi không liên hệ gì đến những quảng cáo về thức ăn. Nó có thể biểu hiện
sự tinh tế, mong manh, trình độ kỹ thuật cao….qua thương điệp các hãng ô-tô (Toyota),
sản phẩm người máy (Matsushita) lẫn các hiệu bào chế (Otsuka-yakuhin). Thật vậy,
muốn sử dụ ng hữ u hiệu các lo ại ẩn d ụ. ta phải biết rõ ý nghĩa của mỗ i ẩn dụ đối với quần chúng khán thính giả nghĩa là những người có tiềm năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
2) Phiêu ngữ(Catchphrase)
Phiêu ngữ hay tiêu-đề là một câu, một chữ được dùng như một điểm hẹn của những
người có cùng một s ở thích hay mục đích (phiêu, tiêu = đích nhắm) T.Tatsumi (1985) đ ã phân biệt phiêu ngữ với khẩu hiệu (slogan) bởi vì theo ông, phiêu ngữ là điểm khở i đầ u để kéo ng ười xem vào phần chính (body copy) muốn nói và không cần phải lặp đ i lặp lại nh ư khẩu hiệu mới có hiệu quả. Phiêu ng ữ cũng không cầ n phải hợp lý như khẩu hiệu và có nhiều khi ăn tiền vì tính cách phi lý, kỳ quái của nó. Có những kiểu tạo phiêu ngữ khác nhau :
- Qua hình thức tiếp cận người tiêu thụ : Độc thoại, nghi vấn, o ép, khuyến cáo, mệnh lệnh.
- Qua thái độ tiếp xúc người tiêu thụ : Đảo lộn trật tự sẵn có (inversion), liên kết
những sự vật thường chẳ ng ă n nhậ p gì với nhau (connexion), trừu xuất (abstraction = thay thế mộ t hình ảnh có sẵ n bằ ng một hình ảnh độc đáo hơn rút ra từ nó) hay gợi nhớ (recall) một hình ảnh trong quá khứ.
– Qua hình thể tiếp cận : chơi chữ, xếp đặt các âm tiết.
Trên thực tế, ba thể loại này cùng được dùng chung với nhau như trong một ma trận.
Để lôi cuốn sự chú ý của khán thính giả và đồng thời là người tiêu thụ, nhiều phiêu ngữ
quái lạ đã được tung ra. Chủ ” Oishii Seikatsu ” (Delicious Life = Cuộc sống ngon lành)
có thể thuận tai người Việt Nam nhưng đối với người Nhật thì thật là quái lạ vì cuộc
sống không phải là một thức ăn để được gọi là ngon lành. Thế nhưng, chưng hửng trước
sự kỳ cục đó, người ta nhớ đến nó dễ dàng hơn là một câu nói thông thường. Muốn tạo
nên một phiêu ngữ ăn khách, nhà làm quảng cáo phải hiểu tâm lý khách hàng và biết
những câu, chữ ăn tiền.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 153/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3) Diễn viên (Actor)
Diễn viên ở đây là những người xuất hiện trong một phim quả ng cáo. Họ có thể là những tài tử nổi tiếng hay những con người tầm thường nhưng tấ t cả bọn họ phải có đặc điể m chung là qui tụ cảm tình của khán giả. Nhiều khi ng ười ta muốn xem mộ t đoạn phim quảng cáo ch ỉ vì diễn viên họ yêu chuộng xuất hiện trong đoạn phim ấy. Thống kê của hãng điều tra JNN Data Bank (do Yamamoto dẫn, 1996) cho biết trên 50% ng ười xem quảng cáo truyền hình ở Nhật chọn phim truyền hình để xem chỉ vì diễn viên. Vai trò của diễn viên rất quan trọng trong phim quảng cáo ở Nhật vì người Nhật yêu thích đặc biệt những kẻ n ổi danh hoặc các nhân vật tuy ít tiếng tăm nhưng gây thiện cảm đối vớ i họ và h ọ có thể đồng hóa bả n thân mình v ới người đó (có phải từ lý do xã hội Nhật là xã hội tập đoàn mà cá nhân chỉ là những con số vô danh ?
Ngày xưa, diễn viên phải đẹp, phải có tài nhưng ngày nay, diễn viên chỉ cần ch ọc cười được khán thính giả. Mỗi thời người ta yêu thích một loại diễn viên khác nhau, mỗi diễn viên thường chỉ được dùng một thời, tuy hãy còn những khán giả trung thành với diễn viên mình yêu chuộng và tiếp tục ủng hộ người đó lâu dài.
Như đã nói, hiện nay ở Nhật, người ta có khuynh hướng lạm dụng cảm tình tốt đẹp của khán thính giả đối với diễn viên và kéo họ từ phim truyện vào phim quảng cáo. Ví dụ truờng hợp Fujita Makoto, đóng vai thám tử trong một cuốn phim trinh thám. Gi ữa cuốn phim, ông ta tạt ngang gi ới thiệu rượu thuốc Yomeishu, rồi quay trở vào tiếp tục điều tra vụ án mạ ng. Và như thế, suốt trên 13 n ăm khi chương trình này lên màn ảnh nhỏ, ông ta được sắp xếp để làm công việc ấy một cách đều đặn. Người ta tự hỏi thám tử tài ba hay cá nhân diễn viên đang qu ảng cáo rượu thuốc đấy ? Sự ” nhập nhằng ” như thế không thể nào được ch ấp nhận trong một xã h ội Tây Phươ ng, nơi mà lúc quảng cáo bắt đầu chi ếu xen kẻ giữa một cuốn phim truy ện, người ta b ắt buộc rao trướ c rõ ràng : ” Kể từ đây là phần quảng cáo ” chứ không để quảng cáo và phim truyện trở thành một tổng thể bất khả phân.
Lối qu ảng cáo ” toàn thể ” nói trên đã được R.Yamashita (1999) nghiên cứu. Bà không những đề cập đến thủ pháp ” Vai Chính Rao Hàng ” (Host Selling) như trường hợp của nam diễn viên Fujita Makoto mà còn cho biết thêm loạ i quảng cáo “Rao Hàng Thay Vai Chính”(Host Sold) trong trường h ợp mộ t nhân vật phụ đứng ra rao món hàng vốn đã mang nhãn hiệu của một nhân vật chính nào đó ( như Mickey, Donald, Pepito… chẳng hạn) .
- Pháp những diễn viên như Catherine Deneuve hay ca sĩ như Julien Clerc, cầu thủ như Zinedine Zidane đã làm phận sự ” vai chính rao hàng ” vậy. Khi Deneuve quảng cáo cho ngân hàng Paribas, nàng đã đem “bán” cái nhân sắc, cái duyên dáng nhưng cũng “bán” tài nghệ diễn xuất vững vàng và cuộc đời thành công trong lĩnh cực điện ảnh của mình. Người xem quảng cáo vốn sẵn có cảm tình với nàng sẽ không cưỡng nổi sự mời mọc khi cô gợi ý mua cổ phần ngân hàng đó, như bị “bắt cóc” (hold-up) hay bị đặt trước một sự đã rồi (fait accompli) (P) nếu nói theo cách dùng chữ của J. Williamson (sách đã dẫn). Jacques Séguéla trong quyển Quảng cáo Vui Lắm Chứ! (C’est Gai, la Pub, 1990) đã viết như sau : ” Trong xã hội tôn sùng cá nhân và chuộng giải trí như xã hội chúng ta, trở thành ngôi sao là điều đáng ăn tiền rồi “. ” Con người đều có không ít thời nhiều những nét cơ bản như dáng dấp, tính tình và phong cách. Muốn nổi hơn người khác thì
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 154/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
dáng dấp của anh phải đập vào mắt, tính tình của anh bất di bất dịch và phong cách của anh khác thường. Cái trội hơn đời là cặp đùi của Marlène Dietrich, đôi mắt của Michèle Morgan, tăm bọt của chai Coca-Cola, hoạt động dấn thân của Yves Montand, tinh thần bè đảng của Marlon Brando, cây gậy của Charlie Chaplin và điếu thuốc lá của Serge Gainsbourg…… “.
Sau đây ta hãy thử xem con s ố dẫn ra bởi Moroeran, 1996 (theo Praet, Carolus trong Takashima, 2000) để so sánh lần xuất hiện c ủa các nhân vật tiếng tăm trong quảng cáo truyền hình giữa một số nước tiên tiến trong kinh tế thị trường.
Đồ Biểu 15.1 : Độ xuất hiện của nhân vật nổi tiếng trong phim quảng cáo truyền hình
Pháp | Đức | Nhật | Hòa-Lan | Tây Ban | Hoa Kỳ | ||||||||
Nha | |||||||||||||
Số phim | 148 | 107 | 117 | 134 | 10 | 138 | |||||||
quan sát | |||||||||||||
Số phim lấy | 122 | 83 | 105 | 102 | 87 | 87 | |||||||
nhân vật | (82,4%) | (77,6%) | (89,7%) | (76,1%) | (87,0%) | (63,0%) | |||||||
làm trung | |||||||||||||
tâm | |||||||||||||
Nhân vật | 19 | 8 | 50 | 4 | 6 | 18 | |||||||
nổi tiếng | (15,57%) | (9,64%) | (47,62%) | (3,92%) | (6,9%) | (20,69%) | |||||||
xuất hiện | |||||||||||||
Số đàn ông | 16 | 6 | 21 | 2 | 5 | 17 | |||||||
nổi tiếng | (13,11%) | (7,22%) | (20,0%) | (1,96%) | (5,74%) | (19,54%) | |||||||
Số đàn bà | 2 | 3 | 29 | 2 | 1 | 1 | |||||||
nổi tiếng | (2,45%) | (2,4%) | (27,61%) | (1,96%) | (1,14%) | (1,14%) | |||||||
Qua đồ biểu này, Nhật Bản được xem như qu ốc gia mà vai trò của diễ n viên được đánh giá cao nhất, sao đó đến Pháp và Mỹ. Ở Nhật còn có cả những tạp chí chuyên môn theo dõi hoạt động của các nhân vật nổ i tiếng đóng phim quảng cáo. Tạ p chí chuyên môn tới mức độ đó mà vẫn có ng ười mua, ch ứng tỏ số người yêu thích các nhân vật diễn xuấ t rất đông đảo. Loại hình của những diễn viên này có thể tóm tắt trong 19 thành phần sau đây: loại diễn viên có thực lực, lo ại mỹ nữ, loại thầ n tượng trẻ của thanh thiếu niên, loại hài hước, loại lắm mồm, loại cá tính, loại nhạc sĩ, loại tuyển thủ thể thao, loại kép đẹp “nguy hiểm” (không cưỡng lại nỗi) , loại thần tượng trẻ đã quá thời. Phải chú thích ở đây thần tượng trẻ” (idol) là mộ t hiệ n tượng đặc biệt Nhật Bản, nhằ m ch ỉ những nam nữ khả ái và có tài năng được “lăng xê” vào giới điện ảnh, ca nhạc hay kịch trường.
Tại sao người ta phải dùng đến diễn viên như vậy ? Câu trả lời thứ nhất là mỗi đoạn
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 155/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
phim truyện đều cần phải có nhân vật để đóng phim. Thứ hai diễn viên là ” điểm h ẹn ” giữa quảng cáo chủ và nhà th ực hi ện phim. Ngộ nhỡ phim qu ảng cáo không thành công thì người ta chỉ cần thay diễn viên là đã có giải pháp mớ i. Ba là diễn viên chi phối nội dung của thương điệp. Họ đóng vai ” dẫn lố i đưa đường ” cho dư luận (opinion leader) vì những người yêu chuộng họ thường thường nghe lời và bắt chước hành động của họ.
4) Yếu tố ngoại quốc
Ta dễ cho là hợp lý khi thấy diễn viên trong nước được dùng để quảng cáo sản phẩn làm
ra ở quốc nội và diễn viên ngoại quốc dùng để quảng cáo những món hàng nhập khẩu.
Nhưng không, người ngoại quốc vẫn có thể quảng cáo cho món hàng trong nước chế tạo
ra và người bản xứ quảng cáo cho những món hàng đến từ nước ngoài. Ở Nhật người ta
dùng các tài tử chớp bóng (Leonard di Caprio, Robert de Niro), ca sĩ (Céline Dion,
Mariah Carey), các nhà thể thao (Alain Prost, Martina Hingis), cả các nhà chính trị
(những người có khuôn mặt giống tổng thống Clinton hay tổng bí thư Gorbachev) nhưng
không phải chỉ có người sống mà cả người đã chết (Elvis Presley, Bruce Lee, Luis
Mariano, Audrey Hepburn…) đều được đưa vào phim quảng cáo (chắc là để khơi gợi ký
ức tập đoàn của những người cùng chung thế hệ). Những nhân vật ngoại quốc xuất hiện
trong thương điệp được tuyển chọn từ các cuộc thăm dò ý kiến hàng năm về người tình
lý tưởng, người vợ lý tưởng, cấp trên lý tưởng. Ví dụ cuộc điều tra của hãng Reiku
(1996) đã cho biết tài tử Pháp Jean Reno đoạt giải đầu về người cấp trên lý tưởng và
đứng hàng thứ tư trong số tình nhân lý tưởng vv…Jean Reno đã được chọn để diễn xuất
trong phim quảng cáo thuốc lá.
Nhật là một dân tộc chuộng người ngoại quốc và có lẽ không chỉ mỗi dân Nhật mới thế.
Sự sử dụng những yếu tố ngoại quốc có lẽ một phần do sự khát khao ngưỡng mộ lối
sống theo phong cách Âu Châu. Do đó, ở Mê Hi-Cô, chẳng hạn, trên 50% là dân gốc da
đỏ và lai (metisso) nhưng trên truyền hình của họ đầy dẫy những diễn viên gốc da trắng.
- Phi-Luật -Tân cũng thế, có tới trên phân nữa diễn viên da trắng. Điều này có thể giải thích thêm bằng ảnh hưởng còn rơi rớt lại của thời kỳ thực dân. Nước Mễ đã bị vương triều da trắng cai trị lâu năm và Phi đã kinh qua trên ba thế kỷ bị Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Mỹ đô hộ. Nhật Bản tuy bị Mỹ chiếm đóng một khoảng thời gian ngắn (trên toàn lãnh thổ) nhưng họ đã ngưỡng vọng Âu-Mỹ từ thời Duy Tân và kể cả trước đó. Sau năm 1945, trong vai trò của kẻ bại trận và đồng minh mới, họ cũng có đôi chút mặc cảm tự ti. Tuy vậy, Nhật luôn luôn cố gắng bắt chước để vượt trội Âu Mỹ (oitsuki, oikoshi) cho nên không thể nói sự ngưỡng mộ đó chỉ có tính chất tiêu cực.
Trong khi đặt tên hiệu (naming) các hãng buôn và các món hàng, người Nhậ t hay dùng tên tu ổi có hơi h ướm Âu Mỹ, điều này có lý do thực dụng là giúp h ọ quố c tế hóa sản ph ẩm và bán dễ dàng trên thị trường thế giới. Họ đặ t tên bằng cách dùng hoặc ghép các từ Anh, Pháp, Đức…hoặc trộn chung mọi thứ tiếng, miễn sao gợi hình, vui tai, dễ nhớ. Nào là đem Phai-ba-mi-ni (Fibermini), Moruningu Furesshu (Morning Fresh), Chaido-Supasharite (Child Specialité), Joa (Joie), Garan (Galant), Enjeru-Haimu (Angel Heilm)… đặt cho các sản phẩm. Họ dùng cả những “hỗn danh ” (nickname) để đặt tên các hãng. National, Technics, Pioneer, Sony, Ka-o…giúp người mua đở mệt trí vì nhữ ng tên Nhật vừa dài dòng vừa khó khăn. Dù v ậy, không phải y ếu tố ngoại quốc nào cũng đạ t được mục tiêu như ý. Người ta còn nhờ có hãng bán đường giả (đường hóa học) đã tung
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 156/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ra món hàng lấy tên là Equal (ý nói đường giả không khác gì đường thật). Món hàng này không được yêu chuộng cho lắm, mãi đến khi người ta đổi tên nó thành Pal Sweet (Ngọt Ngào Thân Thiế t) thì nó mới bắt đầu ăn khách. Do đó, cũng là tên ngoại quốc nhưng nếu mang cái tên lôi cuốn được cảm tình người khác thì mới thành công.
5) Liên hệ xã hội
Chúng ta không lấy làm lạ khi thấ y nh ững liên hệ giữa con người với con người (human relationship) đựơc xem như trung tâm của các thương điệp truy ền hình. Lý do chính là quảng cáo ấy do con ng ười làm ra để cho người khác coi thì tất nhiên liên hệ giữa con người phải là phần then chốt. Trong khi tham khảo 266 đoàn phim truyền hình đoạt giải
- Nhật trong chuỗi thời gian kéo dài 22 năm (1961-1982), nhà nghiên cứu Manaka
(1994) đã tìm ra những chi tiết như sau:
- Thương điệp không có người đóng (30 lần hay 11,3%)
- Thương điệp chỉ có một nhân vật (59 lần hay 22,2%)
- Thương điệp có trên 2 nhân vật (177 lần hay 66,5%)
Điều đó mang ý nghĩa là có đến 88,7% thương điệ p có sự có mặt của con người. Manaka xếp ra 100 loại hình các liên hệ xã hội như “cha và con gái”, “bạn đồng nghiệp”, “người bán ngườ i mua”, “người và thú v ật”, “chào”, “th ăm hỏi”, “nhà trường”, ” nơi giải trí”…và dựa trên phương pháp phân tích nhân tố (factor analysis), ông đã tìm ra một số tương quan có ý nghĩa như sau:
- Tương quan mật thiết giữa những “thương điệp có trên hai nhân vật” với các loại sản phẩm có công dụng tập thể như đồ điện gia dụng và ô-tô, tương quan không mấy chặt chẽ giữa chúng và các loại dịch vụ hay dụng cụ văn phòng.
- Tương quan có mức độ cao giữa “thương điệp chỉ có một nhân vật” với các mặt hàng như đồng hồ, máy ảnh. Mức độ này thấp đối với quảng cáo ô-tô. Đàn ông và đàn bà đều xuất hiện trong các “thương điệp chỉ có một nhân vật” nhưng số “đơn nam” nhiều gấp ba số “đơn nữ”. Những thương điệp “đơn nữ” lùi bước và nhường chỗ cho những thương điệp “đơn nam” hoặc “cả nam lẫn nữ.
- Thương điệp “hoàn toàn người Nhật” chiếm trên 50% , “thương điệp chỉ có người
nước ngoài” chiếm 15% và “thương điệp có cả đôi bên” chiếm 10% tổng số. Con số những thương điệ p có người nước ngoài và thương điệp có cả đôi bên rất phổ thông trong những năm 1970 đã lùi bước, nhường chỗ cho những thương điệp thuần túy Nhật bản.
- Về phương diện tuổi tác, 40% các nhân vật là thanh niên, 10% là loại người sồn sồn giữa hai lứa tuổi, 10% là nhi đồng. Tuy nhiên khuynh hướng chung cho thấy người thuộc lớp trẻ giảm đi và nhường chổ cho lớp người cao tuổi hơn.
- Liên hệ xã hội gặp nhiều nhất là loại liên hệ ” bạn bè “, ” đồng sự ” hay “hời hợt không rõ ràng” (mỗi thứ 20%). Với thời gian, những mối liên hệ này biến đổi và Manaka cho biết các loại liên hệ có tính cách truyền thống và thứ bậc như “thầy trò” “cha con””đàn anh đàn em” đã nhường bước cho loại liên hệ bình đẳng như “anh chị em”, “bạn bè”, đồng sự”, “khách qua đường”, “người yêu nhau”.
- Nói về Địa điểm gặp gỡ thì “giữa thiên nhiên”, “ngoài đường phố”mỗi thứ chiếm 20%,
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 157/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
“trong tiệm quán” và “trong nhà”, cả hai đều chi ếm 10%. Theo thờ i gian , ” các địa điểm như “trong nhà”, “sở làm” v ẫn an định trong khi “địa phương” tiến lên và “nơi giải trí” và “giữa thiên nhiên lên xuống không đều đặn lắm.
- Về phương diện hành động, loại hành động trong đời sống thường nhật chiếm 60%, loại hành động theo sở thích cá nhân chiếm 30% và loại hành động vô nghĩa chiếm 10% tổng số. Trong khoảng thời gian 22 năm nay, loại hành động vô nghĩa tăng gia như thể đánh dấu một thời kỳ mà người Nhật không còn biết thiết tha vào điều gì hay mất đi niềm tin (apathy). Loại “hành động thông thường” giữ được mức độ cũ trong khi những hành vi “cá tính độc đáo” rút lui dần.
- Về lối thông tin, loại thông tin không dùng đối thoại chiếm 60% trong khi chào hỏi, trao đổi tin tức qua lời nói …chiếm 40% còn lại. Dần dần, loại thứ nhất nhường bước cho loại thứ hai, người ta thấy chào hỏi, đối thoại và các hình thức tiếp xúc thân thể khác gia tăng. Cụ thể hơn, những lối thông tin trực tiếp (70%) và song phương (50%) tăng trong khi loại hình gián tiếp (3%) và đơn phương (20%) giảm đi. Loại thông tin đường dây (50%) hay cá nhân thay thế cho loại thông tin đường mạng (26%) tức thông tin tập đoàn. Thông tin tư nhân (66%) cũng tăng lấp vào chỗ thông tin có tính cách công cộng (15%). Thông tin không có chủ tâm (39%), không nhằm thuyết phục (45%), hàng ngang (30%) tiến lên trong khi lối thông tin có chủ tâm (26%), nhằm thuyết phục(16%) và hàng dọc (20%) thụt lùi.
- Điểu tra của Manabe cũng giúp ta hấy sự biến đổi trong hình thái các quan hệ giữa những nhân vật trong phim quảng cáo. Nói chung, ông ta thấy loại “liên hệ nhất thời” (60%) phát triển thêm trong khi loại “liên hệ lâu dài”, “liên hệ thường xuyên”, “liên hệ để thực hiện công trình chung” giảm sút đi. Còn số các nhân vật xuất hiện cũng bớt đi. Số nhân vật thường hấy nhất là “hai người” (47%), sau đến “ba đến chín người” (41%), “mười đền mười chín người” (11%) và sau hết, “trên hai mươi người” (9%). Loại “hai người” và “mười đến mười chín người ” tăng lên theo thời gian trong khi hai loại kia (“ba đến chín người”và “trên hai mươi người”) giảm đi.
Như trên, Manabe đã cho ta thấy tiến tri ển của mô hình thông tin kiểu Nhật. Tuy nó có khuynh h ướng tiến t ừ chỗ theo giai cấp, thứ bậc đế n chỗ bình đẳng, dân chủ nhưng hãy còn khép kín vì liện hệ xã hội của Nh ật v ẫn là liên hệ cơ giới giữa những người gặp gỡ nhau vì một mục đích đặt s ẵn. Thông tin trong quảng cáo truyền hình trong trường hợp này vẫn nhấn mạnh vào sự thuyết phục nhưng với đặc điểm là bằng những phương tiện ngoài ngôn ngữ.
6)Yếu tố vnă haó truyền thống
Nhi ều nhà nghiên cứu đ ã nhận ra rằ ng cùng là quảng cáo cho một thương phẩm nhưng nếu đem đến cho người xem những thông tin quốc hồn quốc túy sẽ đượ c tiếp nhận dễ dàng h ơn. Thật vậy, ng ười xem dễ bị chinh phục và đồng cảm với nh ững thương điệp có yếu tố văn hóa gầ n gũi với họ . Kim Yuk Huyn (Kim Húc Hiền), một nhà nghiên cứu Hàn Quốc (1996) đã quan sát hiệu quả của quảng cáo cà phê Nestcafe Gold Blend ở Nhậ t bằng hình ả nh những vũ công Okinawa cũng như quảng cáo củ a thu ốc lá Seven Star s ử dụng các tay đánh trố ng đạ i cổ trong các ngày l ễ hội dân tộc. Ông Kim đã ch ứng minh rằng hình ảnh của nhãn hiệu món hàng như được củng cố vững chắc hơn dưới mắt
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 158/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
người xem và giúp họ quyết đị nh mua món hàng này dễ dàng hơn. Bởi vì, đối với khách hàng Nhậ t, đối tượng c ủa cuộ c điều tra nghiên cứu này, hình ảnh người vũ công hay tay trống gợi cho họ nhiều giá trị truyề n thống tích cực: dáng dấp nam nhi, v ẻ đáng tin cậy, cuộc l ữ hành, những sự kiêu hùng, trầm tĩnh, nhiệt tình, đứng đắn, trong sáng, hiếm có, phẩm chất….tất cả yếu tố cần thiết để người tiêu thụ tin tưởng vào món hàng.
Theo giáo sư T.Holden (1993), trên màn ảnh truyền hình Nhật Bản, không ngày nào người ta không thấy hình ảnh người tư chức làm vi ệc quần quật trong hãng và bận rộn thù tạc ở các quán rượu sau gi ờ làm việc, hình ảnh bà nội trợ lăng xăng bế múc nhà cửa, tay đấu vật sumo, những màu trắng, đỏ, màu cờ tượng trưng cho nước Nh ật. Do đó, theo ông, những thương điệp truyền hình ở Nhật, khác với ở Mỹ ở chỗ là nó ít nhằm giới thiệu hoặc giải thích về thương phẩm nhưng dựa vào những thông tin tiề m ẩn (hidden message) bên trong quảng cáo “vỗ v ề” người tiêu thụ, giúp họ “vững tin” là quyết định chọn món hàng của họ không hề sai lầm.
- Yamada (1998) qua cuộc điều tra năm 1991, đã đưa ra 10 hình ảnh quốc hồn quốc túy ăn khách nhất đối với người Nhật trong đó ly cung (nhà nghỉ mát) Katsura ở Kyoto của các Thiên Hoàng được 55% dân Nhật cho là biểu tượng cho văn hóa Nhật. Sau đó mới đến ngôi chùa vàng Kinkakuji (44,3%), 53 nhà trạm trên đường Tokaido từ Kyoto lên Tokyo (41,2%) vv…. Ngọn núi Fuji mà nhiều người ngoại quốc nghĩ là tiêu biểu cho nước Nhật chỉ đứng vào hàng thứ 10 với 29,8% số phiếu. Yamada (1998) cũng đã đưa ra một số các hình dung từ ăn khách đối với người Nhật (nhưng chưa chắc thích hợp với một nền văn hóa khác). Theo sự quan sát có kiểm chứng của ông, người Nhật đặc biệt thích những hình dùng từ như yên tĩnh (61,0%), tế nhị (58,5%), đơn sơ (56,6%), khả ái (56,6%), nhu nhuyễn (35,8%), trống rỗng (30,8%). Trong một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật Giáo thiền tông thì “yên tĩnh”,”trống rỗng”, “đơn sơ”…không phải là những giá trị tiêu cực. Yamada đã thử đưa ra bốn bức tranh và đặt câu hỏi với người xem để biết đâu là bức tranh tượng trưng cho sự ” yên tĩnh ” nhất thì họ đã xếp nó theo thứ bực như sau:
- Ánh nước in vầng trăng với một cành liễu la đà (71,7%)
- Tảng đá phủ rêu dầm mình trong giòng nước (71,1%)
- Giòng thác tuôn sau màn sương mờ (45,3%)
- Những cành anh đào nở hoa trong một khung vàng (44,7%)
- Tabuki (theo Kitamura, 1981) cho biết hãng mỹ phẩm Shiseido đã theo đuổi một “chính sách quảng cáo chú trọng về văn hóa” rất táo bạo trong nhiều năm. Những nhà trách nhiệm quảng cáo của hãng này biết người Nhật rất nhạy cảm với sự biến đổi của thời tiết vì ở một quốc gia núi lửa vùng ôn đới như Nhật Bản, phong cảnh hữu tình và thiên nhiên thay đổi theo bốn mùa. Thơ haiku của Nhật sử dụng rất nhiều các hình ảnh nói về mùa (kigo = quý ngữ) và mâm cơm của họ đầy những thực phẩm đầu mùa (shun), nghĩa là hiếm và đắt. Do đó, trong mấy mươi năm, Shiseido đã thực hiện chủ đề “Mùa” để giới thiệu hàng mỹ phẩm của mình. Từ 1961 đến 1965, chủ đề là mùa Xuân, từ 1966 đến 1970 là Hạ và Thu, rồi kể từ năm 1991, mỗi năm họ tập trung vào một màu theo bốn Mùa trong năm với những phiêu ngữ hay tiêu đề (tiếng Nhật gốc Anh) thích hợp với từng mùa, tiêu biểu là :
– Màu Kem Quả (Sherbet Tone) cho chiến dịch quảng cáo Xuân 1962
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 159/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Hồng Đào (Sherry Pink) Xuân 1965
- Ánh Sáng Mới (New Bright) Thu 1967
- Vẻ Đẹp Ban Mai (Morning Beauty) Đông 1971
Những yếu tố văn hóa có thể mang màu sắc cổ kính hay hi ện đại. Yế u tố có màu sắc cổ kính là những lễ hội đị a ph ương, các cuộc cúng tế, vũ nhạc cổ truyền, trang sức y phục truyền thống, nhân vậ t lịch sử. Trong một xã hội như Nhật Bản ta còn thấy nh ững cảnh có cung cách văn hóa x ưa c ũ như cả nh nhờ mối đưa duyên, khấn vái trời phật để xin phúc lộc, ng ười mẹ gở i g ạo lên tỉnh nuôi con hay cảnh nhà s ư trầm tư tr ước cổng chùa. Những hình ảnh ấy rất Á Đông, có thể nhìn thấy cả ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam nữa.
Yếu tố hiện đại qui tụ chung quanh những nếp sống của người cùng thời với chúng ta
nhưng nó phản ánh đựơc dân tộc tính. Một hình ảnh như cảnh những anh tư chúc đi làm
về muộn, đi học lớp đêm, đi nhậu sau giờ tan sở, vui mừng được lên chức, buồn vì bị
thuyên chuyển… điển hình cho lối sống xã hội công thương nghiệp Nhập Bản. Những
hình ảnh ấy có thể không lôi cuốn được sự chú ý của khán thính giả Âu Mỹ. Ở Mỹ
chẳng hạn, sự di động (mobility) trong công ăn việc làm là việc thường tình, không có gì
đáng nói.
Cũng vậy, khi đưa thú vật vào phim truyền hình, người Nhật không chỉ sử dụng các loại
thú vật thường thấy trong phim quảng cáo truyền hình Tây Phương như chó, mèo, sóc,
thỏ, cá voi, gấu trắng…Họ còn đưa vào đó các loại thú vật gần gủi với nền văn hóa của
họ hơn. Ta có thể thấy những loại thú như heo rừng, mực, bạch tuộc, ếch nhái, ruồi
muỗi, cá vàng, tắc kè và ngay cả đom đóm nữa. Trong khi tượng trưng cho đội bóng tròn
của Anh là sư tử, của Mỹ là chim phượng hoàng thì tượng trưng của đội Nhật là …con
qụa đen vì tính cách thần linh, trừ yêu ma của nó.
Như đã nói, khán giả Nhậ t Bản rất thích thiên nhiên. Đó cũng là một yếu tố xem như có tính cách văn hóa. Phong cảnh tuyết giá Bắc Cực, đồng lúa mì Âu Châu, thảo nguyên bạt ngàn của Mông Cổ, rừng nhiệ t đới In-đô-nê-xi-a, sa mạc ngút mắt trên Con Đường Lụa (Silk Road) đều là những yếu tố ngoại quốc như ng quyến rũ được họ. Giải đất chật hẹp nơi họ sống cũng làm họ thêm khát không gian, Nh ững quảng cáo ô-tô của Nhật nhiều khi chỉ có cảnh một chiếc ô-tô chạy trên đường dài hay lướt theo cánh chim dẫn lối.
7) Yếu tố quê hương làng mạc
Ngoài yếu tố truyền thống quốc gia, yếu tố quê hương làng mạc cũng là cái lôi cuốn
người xem quảng cáo truyền hình. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Karasawa (1996) có nhắc
đến sự thành công của hãng bia Asahi khi sử dụng thổ âm (dialect) và những con vật
tượng trưng cho vùng Nagoya, miền trung nước Nhật. Khi quảng cáo với những hình
ảnh và ngôn ngữ địa phương như thế, người quảng cáo đã làm cho người tiêu thụ gần gũi
hơn với mặt hàng. Cũng vậy, những hoa văn trang trí, phù điêu có thể diễn ra được đặc
tính một dân tộc và là một yếu tố thu hút sự chú ý của người xem. Hoa văn trên kimono
Nhật bản, biểu tượng kỵ sĩ đoàn trên giáp trụ hay trong lâu đài của quí tộc Âu Châu, gà
lợn Đông Hồ, chạm khắc trống đồng của Việt Nam vv…là những ví dụ cụ thể.
8) Vai trò của ngôn ngữ và văn tự trong phim quảng coáo truyền hình
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 160/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Sự di ễn tiến, tuần tự của những đoạn phim có một ảnh h ưởng nhất định đến sự cảm nhận một phim truyền hình. Ng ười ta nh ận xét rằng trong phim quảng cáo truyền hình ở Nhật, th ường thường họ đưa ra (hay đọc lên) tên tuổ i hãng vào đoạn cuối phim như thế giúp cái hãng ấy hứng nhận tất cả nhữ ng cảm tưởng tốt đẹp của người xem. Qua công trình nghiên cứu đị nh l ượng thực hiệ n năm 1992 bởi các nhà nghiên c ứu Miracle, Taylor và Chang (dẫn bởi Yu, 1999), người ta thấy rằng so sánh khoảng thời gian từ lúc phim bắt đầu cho đến lúc tên hãng xuấ t hiện trong các bộ phim quảng cáo của Mỹ thì quảng cáo Nhật đưa tên hãng của họ ra chậm hơ n. Lý do có thể là quảng cáo Nhận Bản nhằm đánh vào cả m tình người xem, trong khi quảng cáo Mỹ thường thường trình bày và thuyết phục theo lý luận.
- Tatsumi (1985) khi nghiên cứu ngôn ngữ dử dụng trong các phim quảng cáo của Nhật, có gợi ta những đặc điểm sau đây:
- Ngôn ngữ sử dụng có nhiều khi chỉ là những chữ vô nghĩa nhưng nghe êm tai hay buồn cười.
- Ngôn ngữ tượng thanh được sử dụng nhiều.
- Văn nói được dùng nhiều hơn văn Viết.
Ngôn ng ữ được biểu hi ện tùy theo hoàn cảnh qua những loại chữ viết và khổ chữ khác nhau (ta biết rằng Nhật có đến 4 thứ chữ viết).
Năm 1963, David Ogilvy, tác giả Lời thú nhận của một nhà quảng cáo (L’aveu d’un publicitaire) đã tuyển chọn một số chữ dùng mà ông cho là “kiến hiệu” để thích thích người mua (Yamada, 1998,) . Đối vớ i khán thính giả Tây Phương, đối tượng nghiên cứu của ông, nh ững chữ sau đây là “đắt” nhất: giá hời, dịp may cuối cùng, không mất tiền, thách th ức, ngạc nhiên, hứ a hẹn, cố vấn, sửa đổi …Tuy nhiên Yamada, sau khi đã thử dùng số ngữ v ựng đề nghị bởi Ogilvy trên khán thính giả Nhật Bản, đã tìm ra những kết quả khác hẳn. Giới tiêu thụ trẻ Nhật (lứa tuổi 20) thích những chữ như mới ra lò, giá hời, giản dị , trong khi đó, người lớn tuổi hơn bị lôi cu ốn bởi những lời hứa hẹn như dễ dàng, mới ra lò, giá hời. Điều ấy chứng tỏ giới tiêu thụ Nhật Bả n tuy thích của rẻ nhưng cũng thích nh ững gì mớ i mẻ và không đ òi hỏi họ phải cố gắng khi sử dụng.Yamada lại nhân đấy tìm hiểu động t ừ nào gây hiệu quả tích cực nơ i khán thính giả Nhật và ông đã thấy những động từ như nẩy nở (53,5%), thắng (44%), thử (44%), vượt (44%), ăn (28,3%), dùi mài (20,8%), ca hát (23,9%) mời (20,8%), đạt được (20,1%), uống (18,9%) mang l ại ấn tượng tốt nơi người xem truyền hình. Những động từ khác như chia (1,3%), bị vượt bỏ (0,6%), đóng (0,6%), giống (0%) được coi như là những động từ tiêu cực.
Một đi ều cấm k ỵ trong lúc sử dụng ngôn ngữ trong quảng cáo truyền hình là đi góp nhặt những sáo ngữ (Cliché). Bellaire có đưa ra ví dụ một số lối diễn tả rập khuôn trong quảng cáo ở Mỹ: “Trờ i ơi, ghê thật !” (Amazing, Yes !), “Đổi đời” (Revolutionally), “Bạn sẽ ưa chuộng…” (You’ll love it), Chứng cứ rành rành…((Here is proof)…
Thứ tự trình bày trứơc sau cũng ảnh hưởng đến thái độ của người mua. Một hãng bảo hiểm trình bày ba nỗi lo: nỗi lo mất của, nỗi lo mất việc và nỗi lo bị động đất, theo nhiều
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 161/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
thứ tự và thấy người xem quảng cáo phản ứng nhiều cách khác nhau tùy theo thứ tự trình bày các sự kiện đó.
Cuố i cùng, cũng nên nh ớ là ở mỗi dân tộc, có những sở thích về nhịp đi ệu khác nhau. Nếu người Trung Quốc chuộng lối 5 ch ữ (ngũ ngôn), 7 chữ (thất ngôn), Việt Nam thích nhịp 6,8 (lục bát) người Nhật thích khổ 5,7 vì trong các thể thơ cổ củ a họ như tanka, haiku, ng ườ i ta sử dụng những nhịp điệu này. Người Trung Quốc và Việt Nam dùng vần (yêu vận và cước vận) nhưng người Nhật không có khái niệm về vần.
9) Vai trò của âm nhạc trong phim quảng cáo truyền hình
Ca nhạc trước khi trở thành một bộ phận của phim truyề n hình (Quảng cáo ca = Jingles) có lẽ đã bắt đầ u cùng v ới những hình thức quảng cáo sơ khai nhất. Từ người Néanderthal thời cổ đại Âu Châu đi bán dạo đến anh Sơn Đông mãi võ hay anh Nh ật rao hàng bằng phèng la ch ập chõa (Chindonya), tất cả đều sử dụng âm nhạc như một kỹ thuật quảng cáo. Quảng cáo truyền thanh đã dùng rất nhiều âm nhạc và chúng ta không ai lấy làm lạ khi ở Mỹ, trẻ con đã hát bài hát Mc Donald khi mới thấy thấp thoáng hai màu đỏ, vàng của tấm biển hiệu bán thức ăn vội (fast foods) này từ mãi xa.
Quảng cáo truyền hình dùng âm nhạc thường được trình bày với dạng phim hoạt họa (animation) hơn là dưới dạng thu hình trực tiếp. Có ba lý do :
- Từ âm nhạc sẳn có, ta có thể gắn tiết điệu âm nhạc vào động tác của nhân vật phim theo như ý muốn.
- Phim dễ được sử dụng trong mỗi tình huống.
- Có sự tự do thao tác trong việc phối hợp các đặc tính của phim (diễn xuất, không khí, nội dung) để phát huy hết năng lực của âm nhạc
Khi đem âm nhạc vào phim, ưu thế thứ nhất nhưng cũng là điểm phải chú ý là sự hài hòa nhất trí (synchronization) giữa động tác diễn xuất và nh ịp điệu c ủa âm nhạc. Tuy nhiên không vì thế mà để nó trở thành đơn điệu nghĩa là động tác phải đa dạng để khỏ i gây sự nhàm chán bở i ảnh tượng v ốn có tác dụng mạnh hơn âm thanh. Ưu thế thứ hai là tính cách mề m dẽo, nhu nhuyễn (flexibility) sẵn có trong sự sử d ụng loạ i phim âm nhạ c này. Nó có thể được cắt xén, l ấy bớt ra hay cho thêm vào một số yếu tố, để được đặt ở đầu, ở cu ối một ch ương trình mà không gây ảnh hưởng tới mạch lạc c ủa thương điệp, mộ t điều dễ x ảy ra khi ta dùng loại phim có cốt truy ện. Về mặ t phạm vi biểu hiện (scope), phim hoạt hình với lời ca có sức diễn tả phi hiện thực theo một nhịp nhanh nên năng động hơn là người th ực, việc thự c. Trong trường hợ p này, người xem không cần phải tập trung lưu ý nhiều mà vẫn tiếp thu được nội dung thương điệp.
Quảng cáo ca dùng cho phim hoạt họa có chừng 18 giây đồng hồ là vừa đủ (tất cả
thương điệp chừng 20 giây), trong đó phần cốt cán có chừng 10 giây, nối dài ra bằng
cách ghép nó vào một phim thực diễn có thể kéo đến 1 phút. Khi sáng tác quảng cáo ca
phải để ý làm sao khơi gợi được điểm mạnh của thương phẩm, chọn lời ca ăn khớp,
nhất là lời ca có tính cách “khẩu hiệu”(slogan). Hãng cà phê Maxwell tung ra ca từ “
Ngon tận giọt chót”, hãng thuốc lá Lucky Strike thi dùng câu “Lucky Strike đồng nghĩa
với Thuốc Lá Ngon” (LS/MFT = Lucky Strike Means Fine Tobacco). Dĩ nhiên khẩu
hiệu phải đọc sao cho xuôi tai hay có vần điệu để dễ nhớ, ví dụ lời ca của hãng thuốc lá
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 162/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Marlboro:
You get a lot to like Marlboro
Filter, flavor, flip-top box
Dĩ nhiên l ời ca muốn nói thuốc lá Marlboro có nhiề u điểm h ấp dẫn để ta phải yêu thích nó, nào là đầu lọc (filter), hương vị (flavor), h ộp có nắp đậy (flip-top box ) nh ưng ca từ dễ quyến rũ vì nó còn lập đi lập lại ba lần chử F cho ba điểm mạnh của thuốc lá này.. Hãng Pepsodent làm thuốc đánh răng có câu :
You’ll Wonder Where the Yellow Went
Câu này có nghiã là “Bạn sẽ tự hỏ i màu ố vàng đã bi ến đâu mấ t” và ta thấy thương điệp có thêm khả năng thuyết phục với lối lập đi lập lại 2 lần chữ Y (You, Yellow) và 3 lần chữ W (Wonder, Where, Went).
Một chìa khoá nữa c ủa sự thành công là thời điểm (timing). Khi phải cắt phim thành những mảnh nhỏ thì không th ể nói hết những đi ều mình muốn nói nên phải biết đặt trọng tâm vào chổ nào và đưa nó ra vào lúc nào trong phim. Có khi cần phải t ăng tốc độ phim để tiết kiệm thờ i giờ nhưng chỉ được thực hiện nó đến một giới hạn nào đó thôi vì làm như thế là đánh mất ca từ. Thương điệp có khả năng trở thành khó hiểu hoặc vô nghĩa.
Có người nghĩ nên soạn nhạc rồi đặ t lời, kẻ khác tính ngược lại nhưng thật ra không nên coi ph ương pháp nào là cố định mà phải xử lý tuỳ tình hình. Khi ta đã có âm nh ạc nhiều người biết ho ặc đã hết thời hạn bảo hộ b ản quyền và đã thành của công ( public domain) ai dùng cũng được thì nên đặ t lời ca sao cho phù hợp với nhạc. Có đi ều phải xem đã có ai s ử dụng cái “của trời cho” nầy ch ưa. Những làn điệu dân ca chẳng thuộc về ai c ả, ta có thể dùng và chế biế n bằng cách sử a đổi nhịp đ iệu sao cho phù hợp vớ i món hàng. Nhịp điệu nhanh h ợp với mặ t hàng như xe h ơi vì xe hơi nhắm vào giới trẻ, xe lại ph ải mạnh và an toàn. Tuy vậy, nhịp điệu chậm mới thích hợp cho mặt hàng mỹ phẩm vì nó cần một chút lãng mạn, thơ mộng.
- Mỹ đã có thí dụ thành công của loại nhạc xưa như trường hợp quảng cáo ca của Pepsi Cola dựa trên John Peel, một bài hát cổ. Về phía những ca từ độc đáo mới sáng tác thì có thí dụ của Chiquita Banana Song, được coi là một thành công chưa từng thấy trong lịch sử ca nhạc quảng cáo. Dù đây là quảng cáo của hãng United Fruit Company nhưng trong bài ca không nhắc đến tên hãng cũng như tên thương phẩm. Vì hãng này hầu như nắm độc quyền buôn chuối ở Mỹ nên chỉ riêng việc thiên hạ mua chuối là đã làm lợi cho họ rồi.
Về cơ bản, lời ca phải phát xuất từ đặc điểm của món hàng nhưng không được rườm rà,
nhạc điệu cũng nên giản dị, dễ hát theo. Chữ dùng phải rõ ràng để tránh ngộ nhận. Hãng
bia “Schlitz” phải cắt tên nhãn hiệu làm hai (Schuh-litz) để giúp người xem không còn
có thể lầm nó với một tên bia tương tự nào nữa. Ca từ nên có điệp khúc vì sự lập đi lập
lại gây hiệu quả ký ức. Ta thấy nguyên tắc này thường được sử dụng trong các làn điệu
dân ca (hát lý hát dặm), nhạc hát trong lúc làm việc (loại hò dô ta), nhạc tán mỹ (như
thánh ca) hoặc điệu bơ-lu-zơ (blues) của người da đen. Hiệu quả âm thanh (sonore
effect) như cách dùng chữ gợi hình, cách huýt gió, các loại nhái giọng (gimmic) các
tiếng thú vật như cú kêu (dao cạo Gilette), ểnh ương kêu (bia Budweiser), tiếng động cơ
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 163/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
khí như chuông kêu, còi xe lửa hú, tiếng kèn. Harry Feet , một hãng đóng giày ở Mỹ đã chế quảng cáo ca dựa trên cơ sở của nhịp chân khiêu vũ (tap-dance) rất thành công.
Các nhà quảng cáo thường mua b ản quyền của một bài hát có khả năng trở thành tác phẩm lưu hành rộng rãi trong đại chúng và khai thác tiềm năng thương mại của nó về sau. Ford đã làm việc này khi mua tác quyền của “The Ole House” ngày nó mớ i ra lò và đạt được hiệu quả thương mại rất lớn về sau. Có người chỉ còn nhớ một bài hát qua sự sử dụng th ương mại củ a nó mà quên cả lời ca nguyên thủy. Ngược lại, dùng một làn điệu đã quá nổi tiếng sẵn có sự bấ t lợi là khi khúc ca đó được hát lên, người ta chỉ nhớ ca t ừ cũ mà quên đi những điều gì mà người quảng cáo muốn gửi gắm vào ca từ quảng cáo lồng khung trong khúc nhạc đó.
Những nhà nghiên cứu Nhật Bản cũng thừa nhận vai trò chủ đạo của âm nhạc (music),
âm thanh (sound) cũng như tác dụng âm thanh (acoustic effect) trong quảng cáo
truyền hình. H.Ogawa (1997) trong công trình nghiên cứu về âm nhạc của quảng cáo
truyền hình còn nói thẳng là ” âm nhạc một mình nó cũng đủ sức chuyên chở thương
điệp “. Nhưng người sống ở Nhật lâu năm đều nhớ quảng cáo với băng nhạc Yeh Yeh
của hãng quần áo Renown cũng như điệu nhạc French Can Can của Offenbach tuyên
truyền cho bánh trái của nhà Bunmeido một cách rất có hiệu quả. Lúc đầu, âm nhạc
quảng cáo còn xa vời với quần chúng nhưng đã trở thành thân thiết vì gọn gàng và dễ
nhớ. Không lạ gì khi thấy trẻ em trường mẫu giáo hát nghêu ngao nhạc quảng cáo.
Nhưng năm gần đây, các phong trào đại chúng như Jukes Box, CD, Karaoke cũng như
những chương trình truyền thanh hay sắp hạng (ranking) các bài hát ăn khách nhất đã
tiếp tay cho việc đại chúng hóa âm nhạc nói chung và âm nhạc quảng cáo nói riêng. Âm
nhạc quảng cáo cũng phát triển theo thị hiếu âm nhạc của đại chúng. Vào thập niên
1960, nhạc quảng cáo ở Nhật mô phỏng loại dân ca Mỹ (folk song), sang đầu niên đại
70, nó trở về với làn điệu dân dao Nhật Bản (enka), rồi bước qua năm 1976, nhạc quảng
cáo mang âm hưởng của nhạc trẻ (new music) trước khi nhường bước cho loại nhạc
mang hình ảnh của các hàng buôn. Hiện tượng Imeson (Image Song) “Hình Ảnh Lồng
Trong Tiếng Hát ” này có nghiã là các chủ quảng cáo dùng một bài hát đã nổi tiếng để
“đại diện” cho thương phẩm của hãng mình, đến nổi chỉ nghe điệu nhạc đã có thể liên
tưởng đến thương phẩm. Một ca khúc nổi tiếng có thể gây bất lợi cho thương phẩm vì nó
lấn át thương phẩm (như đã nói ở trên) nhưng người ta nghi ngờ rằng chính những nhà
quảng cáo đã “lăng-xê” bài hát với mục đích trong tương lai, khi nổi tiếng, nó sẽ thành
công cụ quảng cáo cho thương phẩm hay đưa danh tiếng của hãng lên cao.
Năm 1977, bản Ký Ức Tình Yêu (Ai no memori) sau khi bán được trên 640.000 ngay năm đầ u, được dùng để qu ảng cáo sô-cô- la cho hãng Glico. Năm 1980, bản Thức Gi ấc (Wake Up) sau khi đã bán được 460.000 bản, đã được đưa ra làm chiêu bài cho đồng hồ Seiko. Cũng trong năm này, bản Môi ơi, hãy kể chuyện về chàng (Kuchibiru yo, atsuku kimi wo katare), bán được 430.000 ngay năm đầ u và được dùng để giớ i thiệu mỹ phẩm Kanebo. Người ta nghi ngờ các hãng nói trên đã bảo trợ cho bài hát và ca sĩ, để nó phục vụ lại cho sản ph ẩm củ a mình. Ai cũng biết trong ngày lễ Thánh Va-lăng-tanh (St Valentin) những người yêu nhau ở Nhật thường tặng sô -cô -la cho nhau, còn như mối liên hệ giữa “Thức Giấc” và đồng hồ Seiko, ” đôi môi ” và mỹ phẩm Kanebo, hẳn không phải là sự tình cờ.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 164/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nói v ề âm thanh (sound), ta cần nhắc đến những tên hiệu được âm nh ạc hóa (musical logo) nghĩa là được đọ c lên với âm thanh réo rắ t chứ không phải chỉ in bằng chữ viết. Như thế , hiệu quả của những tên hiệu âm nhạc hóa như Kankan Kanebo, Tonton Toshiba hay Jinjin Jintan sẽ gây ấn tượng sâu sắc hơn là tên hiệu đơn thuần như Kanebo (Mỹ phẩ m), Toshiba (Sả n phẩ m đ iện khí và điện tử ), Jintan (Kẹo thơm miệng). Nhiều cuộc thí nghiệ m v ề chấn động âm thanh (vibration) cho biết các loại âm nhạc như điệu Jazz va Valse gây nhiều chấn động cho người nghe hơn âm thanh bình thường. Ngoài ra, những tiếng động như tiếng nướ c đá lanh canh đập vào thành cốc rượu hay cốc nước giả i khát, ti ếng xì xụp húp xúp cũng gây khoái cảm cho lỗ tai người nghe và có tác dụng lớn cho sự thành công của sản phẩm.
Trong một số quốc gia, kể cả Nhật, nơi người ta có cảm tình và ngưỡng mộ người ngoại quốc, có những quảng cáo truyề n hình song ngủ (bilingual promotional message). Lố i quảng cáo này lúc làm cho ngườ i ta bu ồn c ườ i (ví dụ một người Tiệp giải thích về món hàng cho người Nhật bằng tiếng Tiệ p) hay có tính cách khêu gợi, lôi cuốn (một phụ nữ da trắng xinh đẹp thỏ thẻ bằng tiếng Pháp) hoặc áp đặt khi một gã phù thủy hăm dọa bằng tiếng Anh cổ thời Shakespeare, như sau:
“Oh, foolish people who did not heed my advice?Why did thou not believe in Berlitz? The secret of the Berlitz method gives you the ability to speak. Listen once more. Without Berlitz, thou shalt never speak English. ..Without Berlitz, thou shalt never…”.
Rõ ràng là khẩu điệu dằn mặ t để trấ n áp nhữ ng người tiêu thụ yếu bóng vía khi coi họ là khùng điên (foolish people), không đủ năng lực (thou shalt never), và dùng mệnh lệnh cách (listen) để sai bảo hãy đặt câu hỏi (why) . Ngoài ra, trong nhữ ng trường hợ p khác, người xem không cần hiểu tiếng ngoạ i quốc. Không khí ” lạ mắt lạ tai ” (exotic) sẽ làm cho thương điệp dễ chấp nhận hơn dù có khi ta chưa biết nó nhằm quảng cáo cho món hàng nào.
10) Vai trò của màu sắc và sắc điệu trong quảng cáo truyền hình
Một quảng cáo truyền hình đen trắng khó lôi cuốn người mua bởi vì màu sắc của sự vật
giúp chúng ta nhìn nó như ta vẫn thấy trong đời sống hằng ngày (nói như thế không phải
để bảo rằng đen trắng không có phận sự gì). Nhà nghiên cứu Nhật Chijiwa (trong một
điều tra ở 5 đài truyền hình ở Nhật năm 1967) cho biết, quảng cáo bằng màu sắc làm ta
thích thú hơn (+11%), gây ấn tượng tốt hơn (+50%) và dễ nhớ hơn (+87%). Ông cho biết
ba màu ” ăn khách ” nhất (đối với khán thính giả Nhật) là màu trắng, đen và đỏ. Qua
cuộc thí nghiệm đó, ông còn thấy rằng những màu sắc quá đối chọi thường không được
thích bằng những màu sắc hài hòa.
Người ta nhận th ấy có những mặt hàng đòi hỏi phim phải thể hiện được màu sắc ăn khớp với bản chấ t của nó. Chẳng h ạn máy lạnh, quạt máy, điện thoại nên trình bày bằng những màu mát dịu như màu xanh trong khi lò sưởi hay bếp điện có thể trình bày với màu đỏ hay da cam. C ũng nên để ý là có những màu sắc liên h ệ đến hình ảnh c ủa một xí nghiệp, ví dụ màu đen của Mercedes, màu đỏ tươi của Ferrari, màu vàng và đỏ của Shell…M ột biến số nửa rất quan trọ ng trong việc dùng màu là màu sắc thay đổi theo lứa tuổi. Iide của hãng Dentsu cho biết sự nhạy cảm về màu sắc khác nhau giữa nam và nữ giới, giữa người lớn tuổi và thanh niên. Màu đen đối với người trẻ là cái gì nghiêm khắc,
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 165/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
đối vớ i người già nó tượng trưng cho sự trang nghiêm. Nơi người đàn ông trẻ, màu đỏ tượng trưng cho nhiệt tình và cách mạng, nơi phụ nữ nó tượng trưng cho đam mê và nguy hiểm.
- Kaneko (1990) đã sử dụng phương pháp điều tra theo ngữ vị (SD = Semantic Differential, đối chiếu màu sắc với một số tính từ) của nhà tâm lý học Mỹ Osgood và cho biết các đối tượng Nhật Bản đã xem màu đỏ có liên hệ với vẻ đẹp, sự vui tươi và sự ấm áp. Họ xem màu vàng là màu của nhẹ dạ, nhu nhuyễn và linh hoạt. Ngoài ra, màu sắc còn có liên quan đến âm thanh. Kaneko cho biết năm 1704, Newton đã định nghĩa bảy màu sắc theo bảy nốt nhạc.Xa hơn nữa, màu sắc còn dính liền với sức khỏe tâm thần của con người. Do đó, chuyển một hình ảnh từ màu sắc này qua màu sắc khác là đổi ý nghĩa của nó.
Thái độ của con người đối với màu sắc không dừng lại một chổ. Theo cuộc điều tra của
Trung Tâm Nghiên Cứu Màu Sắc Nhật Bản, khán thính giả Nhật Bản đã thay đổi cái
nhìn của họ về màu sắc vào những thời điểm khác nhau. Năm 1970, màu được yêu
chuộng nhất là màu trắng, sang năm 1979, nó là màu xanh biếc. Năm 1980, màu lục biếc
và họ trở lại màu xanh biếc năm 1981. Màu sắc cũng thay đổi tùy theo quốc gia: các
quốc gia Hồi Giáo chuộng màu xanh ve chai, hai nước Đức Áo thích màu đen, trắng và
màu xanh ô-liu, các nước xã hội chủ nghiã thích màu đỏ. Nhật cũng thích màu đỏ nhưng
đó là màu đỏ của mặt trời, tượng trưng cho Thái Dương Thần Nữ. Họ cũng thích màu
trắng vì đó là màu của Thần Đạo và màu xanh biển vì nước họ là một quốc gia hải
dương.. Như thế, cũng cùng trong hệ thống tam tài (tricolor) như Anh, Pháp, Mỹ, Hòa
Lan nhưng Nhật Bản có nhưng lý do riêng chứ không như lối giải thích của các quốc gia
này.
Phải nói thêm nữ a là sự thưởng thức về màu sắc còn tùy theo tâm trạng. Theo kết quả cuộc điều tra của hãng Kanebo trên các đối tượ ng dân Tokyo từ 18 đến 50 tuổi (dẫn bởi Takeuchi, 1999), những người này cho biết thế kỷ 20 được tượng trưng bằng màu xám (sau đó là màu xanh, trắng, đỏ). Thế kỷ 21 được t ượng trưng bằng màu trắng, rồi đến cam, vang, h ồng, xanh. Theo cảm tính của người Nhật, màu xám tượng trưng cho suy thoái, bất an định và mông lung trong khi màu xanh là điểm khởi hành, thanh toán, thay đổi và vô giớ i h ạn.Chúng ta hi ểu tâm trạng của họ qua màu sắc v ề phản ứng của họ trước nguy cơ kinh tế kéo liên miên vào thời điểm những năm cuối thế kỹ vừa qua.
Màu sắc cũng mang ít nhiều tính cách giai cấp. Giới trưởng giả thích màu nh ẹ nhàng, nhàn nhạt (kem, mỡ gà, xám) trong khi giới bình dân thích những màu mạnh mẽ, đối chọi. Ở Nhật, màu sắc là một phần của của thiên nhiên nên họ định nghĩa màu s ắc theo thiên nhiên (xanh rêu, vàng cam, vàng qu ả thị, đỏ lá phong) và cũng định nghĩa theo màu sắc dùng bởi các diễn viên tuồng hát (Kabuki) vì họ yêu chuộng những nhân vật nỗi tiếng ấy.
Cuố i cùng, nhân nói về việc sử dụng màu s ắc trong quảng cáo truyền hình, ta phải nhắc đến một phát hiện của Bartleson năm 1960 (theo R. Yamada, 1973). Theo đ ó, màu s ắc nào cũng có dính líu v ới ký ức. Màu của ký ức là một màu đã gắn chặt với mộ t vật thể và hiệ n ra cách đương nhiên trong ký ức của ta. Chẳng hạn nói đến ” thùng thư ” thì một người Nhật nghĩ đến màu đỏ và người Pháp nghĩ đến màu vàng.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 166/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
10) Vai trò của đường nét và thể khối trong quảng cáo truyền hình
Đường nét và thể khối có thể ảnh hưởng đến tâm lý nhận thức c ủa ng ười xem. Đó là nhận định của các nhà nghiên cứu Mỹ từ nhữ ng năm 1960 về tác d ụng của quảng cáo với cơ s ở sinh vật của con người. Đó cũng là câu hỏi đặt ra cho R. Yamada (1998) khi ông xét vấn đề vai trò củ a não bộ trước những kích thích ngoại giớ i nhấ t là khi quảng cáo đã bắt đầu tràn ngập những loại hình ảnh do máy vi tính tạo ra (CG hay Computer Graphics) rất đa dạng và phong phú mà ng ười chế tác phim qu ảng cáo nhờ nó mà có khi gây được những bất ngờ trên phương diệ n ả nh tượng. Yamada đã dò xem phản ứng của cơ thể (l ưu lượng của mạch máu não bộ, s ự bài tiết chất toan và các hóa chấ t khác cũng như qua những tín hiệu điện t ử vi tính ghi được) trước nh ững thao tác ngôn ngữ và hình ảnh như chơi chữ, tính nhẩm, liên tưởng, kết hợp động từ và danh từ với nhau.
Khách mua hàng trước hế t phải nhớ đến mặt hàng hay nhãn hiệu của nó. Thương điệp quảng cáo để lại ấn tượng trong ký ức của người xem có th ể xem như một thương điệp thành công. Muốn ghi nhớ cầ n phải có sự chú ý. Trình bày thươ ng điệp trong bao nhiêu lâu và làm gì để gây được sự tập trung để ghi nhớ, đó là câu hỏi đặ t ra cho ng ười nghiên cứu về hiệu quả của quảng cáo. Yamada dẫn Solso (1994) cho biết nhữ ng chi tiết như con mắt phải có một tầm nhìn (champs visuel) (P) ít nhất ở một góc 30 độ mới có th ể bắt đượ c hình ảnh. Ngoài ra, cần có một khoảng trống chiếm từ 1/3 đến 2/3 toàn thể thì hình ảnh mới nổi bật ra được.Những đồ hình và th ể khối độc đáo để được ng ười ta chú ý hơn là những ảnh tầm th ường (Yamada d ẫn D.A. Norman). Trong một cuộ c điều tra để ki ểm chứng giả thuyết về hình ảnh ấn loát của Bauhaus, Yamada đã nhận ra rằng loại hình tròn (17%), hình cà na (20,8%) được yêu chuộng hơn là những hình vuông (3,8%) hay hình chữ nhật (1,9%). Loại tam giác với những góc nhọn đ ã được gọt giũa cho tròn (hảo ý lên đến 23,3%) được yêu chuộng hơn loại tam giác nhọn góc (3,1%).
Sự cân đối củ a một hình ảnh cũng rất cần thiết. Đi từ giả thuyết là một hình ảnh đơn giản, cân đối, hài hòa sẽ được yêu thích hơ n một hình ảnh phi cân đối, Yamada đã tìm thấy rằng ng ười Nhậ t chuộng hình ảnh cân đối (67,3%) thay vì hình ảnh thiếu cân đối (23,7%) cho dù kiến trúc Nhật Bản thường dựa trên những hình thể thiếu đối xứng, một đặc điểm nếu đem so sánh với kiến trúc Trung Hoa.
Những đườ ng nét có thể mang một ý nghĩa nào đó. Bằ ng lố i thực nghiệm qua liên tưởng, Yamada đ ã khám phá ra những tương quan khá lý thú giữa đường nét và ý nghĩa của nó nơi người xem.
Đồ Biểu 15.2: Giá trị tượng trưng của đường nét (%ý kiến)
Giá trị tượng | Đường thẳng | Đường nằm | Đường chéo | Đường chéo hạ | |||||
trưng | đứng (%) | ngang (%) | hướng lên phiá | xuống tay phải | |||||
phải (%) | (%) | ||||||||
Nam tính | 89,3 | 21,4 | 71,1 | 28,9 | |||||
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 167/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Thất bại | 6,3 | 69,8 | 30,8 | 89,9 | ||||||
Thiên đường | 88,1 | 31,4 | 78,6 | 14,5 | ||||||
Xuống dốc | 5,0 | 66,7 | 12,6 | 92,5 | ||||||
Trẻ trung | 97,5 | 18,9 | 78,0 | 18,9 | ||||||
Cứng cáp | 93,7 | 39,0 | 49,1 | 35,8 | ||||||
Bảo thủ | 22,6 | 92,5 | 15,7 | 79,2 | ||||||
Nhẹ nhàng | 66,0 | 26,4 | 74,8 | 73,6 | ||||||
Lạnh lùng | 79,2 | 34,0 | 47,8 | 73,6 | ||||||
Thành thị | 93,7 | 15,1 | 85,5 | 45,9 | ||||||
Xuất xứ: R. Yamada (1998) |
12) Sử dụng hài ước trong quảng cáo truyền hình
Con người không chỉ là một con vật có tri thức (homo sapiens) và con vật lao động
(homo faber) mà còn là con vật du hí (homo ludens) và con vật bông đùa (homo ridens).
Thi nhân, hiền triết La Mã, đã biết rằng ” Khôi hài giúp học nhanh, dễ nhớ “. Đi từ nhận
xét đó, khoa quảng cáo ngày nay đã khai thác khía cạnh hài hước trong thương điệp. Tuy
có người cho rằng khách hàng xem quảng cáo có thể cười trước một phim quảng cáo
nhưng chưa chắc tiếng cười của họ sẽ đ ưa tới hành động mua hàng, phần đông đồng ý
rằng quảng cáo mà buồn tẻ hay gớm ghiếc thì nhất định không kích thích nổi người mua.
Patrick Kelly và Solomon thuộc Đại Học Richmond (Virginia, Hoa Kỳ) từ 1975 đã đặc
biệt nghiên cứu về hiệu quả của tiếng cười trong quảng cáo với trên 2000 quảng cáo
truyền hình và đã truy ra được 14,7% mang tính chất hài hước, nói cách khác, hễ có từ 6
hay 7 quảng cáo thì đã có một quảng cáo mà vũ khí là sự khôi hài.
Hai tác giả đã thử phân loại quảng cáo có tính cách hài hước. Họ cho rằng có ít nhất là sáu thể loại khác nhau:
- Chơi chử (Pun): sử dụng một chử, một câu có hai nghĩa (đồng âm dị nghĩa).
- Coi nhẹ (Understatement), đánh giá hời hợt về một sự vật gì. Đối nghịch với Overstatement (coi nặng, thậm xưng).
- Giởn cợt (Joke) nói hay hành động một cách thiếu nghiêm trang
- Kỳ cục (Ridiculous) trình bày điều gì một cách khác thường và buồn cười.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 168/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
- Châm biếm (Satire) để cười cợt thói hư tật xấu
- Mỉa mai ( Irony) nói ngược lại những điều mình nghĩ
- Gợi ý bông đùa (Intent) cho người xem biết mình đang chọc cười. Để có sự đồng cảm giữa người làm quảng cáo và người xem nó, những yếu tố văn hóa, địa phương, thời điểm, cảa xúc cá nhân …là những biến số quan trọng trong trường hợp này.
. Hai tác giả cũng kiểm điểm lại một số giả thuyết và đưa ra vài kết luận sơ khởi như sau
:
Người thật vi ệc thật (78,1%) cũng có thể làm t ức c ười chứ không riêng gì những nhân vật hoạt hình (12,3%) dù là trong một nền văn hóa như vă n hóa Mỹ , hài hước thường đ i đôi với phim hoạt họa (animation). Cũng có những quảng cáo dùng cả hai loại một lúc (9,6%).
- Phim quảng cáo hài hước không cần phải đông người mới hữu hiệu. Số người diễn xuất trung bình từ 1 đến 4 người là đủ (30,8% dùng 1 người, 38,1% dùng từ 2 đến 4 người).
- Hài hước không phải là yếu tố ” vén màn ” hay gây cảm tình trước mào đầu cho việc đưa sản phẩm tới tay người mua. Yếu tố khôi hài có thể đưa vào khúc đầu (7,4%), khúc sau (27,4%) mà thông thường nhất là trong cả hai đoạn (65,2%) của quảng cáo.
- Khôi hài không phải dính líu đến thương phẩm mới có hiệu quả. Chọc cười để người ta cười qua một yếu tố ngoài thương phẩm (47,5%) cũng có thể dẫn tới hiệu quả thương mại gần giống như khi khôi hài trực tiếp về thương phẩm (52,5%).
Về việc sử dụng khôi hài trong truyền hình, hãy còn nhiều câu hỏi được đặt ra. Mộ t là khôi hài có thể là nơi ẩ n náu trốn tránh của ng ười làm quảng cáo hay không ? Khi dùng khôi hài để quảng cáo, người quảng cáo có thể tìm ra nơi ẩn náu vì sẽ đở bị người tiêu thụ chỉ trích, đở làm cho những ng ườ i này thất vọng nếu thương phẩm không mang lạ i cho họ sự mong mu ốn chăng? Hai là bàn về mặt luân lý đạ o đức, khôi hài có thể gây hiểu lầ m (nhiều khi có hại ) nơi trẻ em là những khán thính giả còn quá non nớt để hiểu đó chỉ là đùa cợt chăng ?
Theo D. Saunders, ngoài nhữ ng quảng cáo liên h ệ đến dục tình (sex), gây choáng (shock) hay gây mộng tưởng (fantasy) thì qu ảng cáo chọ c cười là một vũ khí đáng k ể để chiêu hàng (Make us laugh, make us buy). Saunders đi xa h ơn trong phân tích yếu tố cườ i, b ởi vì theo ông, ngoài cái cười hồn nhiên (funny haha), c ười mĩm (mild smiles), còn có cái cười điên dại (funny peculiar), cười hung bạo (cruel humour), c ười trước cảnh khổ đau của ng ười khác (I laugh, you cry). Hơn hai mươi năm sau Patrick Kelly và Solomon, phân tích của Saunders có thể đã phản ánh được thực sự thời đại chúng ta, khi cái cười trong quảng cáo có tính cách gây hấn hơn trước.
Mỗi nền văn hóa đều có một lối bông đùa riêng. Khôi hài kiểu Do Thái là tự chế nhạo mình như thể t ự cườ i mình trước thì người khác khỏi cười mình. Khôi hài của Anh là ” cù không cười ” hay khi nói bông đùa làm người khác cười mà chính đương sự lại không nhếch mép. Tiếu lâm Việ t Nam và Trung Quốc tuy gần nhau nhưng không hẳn giống nhau. Ở Nhật Bản, người vùng Tokyo cười nhẹ nhàng, tinh tế hơn người Osaka. Lối cười Osaka rất mạnh bạo và khó thể được người ngoại quốc thông cảm.
Nói cách khác, cườ i trong quảng cáo là cái cười cơ trí (Wit) nhưng phải coi chừng, không phải lúc nào cũng cần chọc cười. Bellaire (sđd) khuyên ta nên dùng nó khi món
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 169/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
hàng của ta đã có mặt trên thị trường quá lâu và đã mất vẻ tươi mát hay tự thể nó không có cái gì đặc biệt để trội hơn những món hàng cạnh tranh.Qu ảng cáo thức ăn, nước uống có thể dùng khôi hài. Ng ược lại, dùng khôi hài để quảng cáo cho một mặt hàng có tính cách đứng đắn như dược phẩm, y liệu hay khôi hài chỉ để mà khôi hài thì không nên làm.
Nhìn chung, trong ngành quảng cáo, làm cho người tiêu thụ cười là một cách b ảo khéo với họ rằng họ có nhu cầu chính đáng và người quảng cáo sẽ sẳn sàng làm vừa lòng họ.
13) Sử dụng kỹ thuật giúp trí nhớ trong quảng cáo truyền hình
- Nhật, người ta hay sử dụng kỹ thuật giúp trí nhớ (Memo-technics) để tăng hiệu quả của quảng cáo. Ví dụ thứ nhất là sự sử dụng các con số, khởi đầu với số điện thoại. Chúng ta vẫn biết trong các nước Á Châu (Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam…) những con số có một ý nghĩa rất quan trọng. Ở Hương Cảng, người ta tranh nhau mua với giá cao biển xe hơi mang nhưng con số như 777 hay 999 vì nó tượng trưng cho vận may. Người Nhật cử số 4 vì trong tiếng Nhật chữ Shi (số 4) cũng có nghĩa là Chết (Tử), người đi mua nhà bất đắc dĩ mới bỏ tiền mua một căn buồng ở lầu thứ tư. Tờ báo Tokyo Shimbun nhằm mục đích giúp độc giả tưởng lại nhớ con số điện thoại tòa soạn của mình (026-999) đã đưa lên màn ảnh nhỏ mẫu chuyện ngắn về một người mắt yếu tắm ngoài trời, kỳ lưng cho con gấu đi lạc lúc nào không hay, đến khi biết được mối nguy phải lên tiếng kêu cấp cứu. Khán giả không phải người Nhật không thể nào hiểu mẫu chuyện đó ám chỉ điều gì nhưng đối với khán giả Nhật thì nó là một câu chuyện hài hước: một người tắm (bằng cách đọc bắt âm thì o-fu-ro=nhà tắm=026) kêu la cấp cứu (kyu-kyu-kyu= cứu tôi ngay=999). Hãng bảo hiểm American Home Direct khi bước vào thị trường Nhật đã hiểu hiệu năng đặc biệt này. Quảng cáo hệ thống ghi danh bảo hiểm trực tiếp qua điện thoại của họ, hãng này đã giúp (hay nhồi sọ) người xem điện thoại của mình 840-840 (ha-shi-re, ha-shi-re) có một nghĩa khác là “Nhanh chân lên, nhanh chân lên!”.
Các nhà làm phim quảng cáo còn lợi dụng những thủ thuật giúp trí nhớ ngườ i ta dạy trong các lớp luyện thi để t ăng cường khả n ăng ghi nhớ của khách hàng. Kẻ viết những giòng này còn nhớ những năm trên ghế trường trung học, người thầy địa lý đã dạy hai câu:
Hăm ba rồi lại hăm ba
Tám đồng một chai (bia) băm ba
để giúp học sinh biết hình thể nước VN vố n kéo dài từ vĩ tuy ến 8.33 (địa đầu phía Nam) đế n 23.23 (biên giới phiá Bắc). Chế độ khoa cử ở Nhật trước đây cũng như thế vì họ đòi hỏi sinh viên phải có trí nhớ cực tố t. Sinh viên Nhật có thể trả lờ i dễ dàng những câu hỏi như Christophe Colomb đã tìm thấy châu Mỹ năm nào (1492), số căn của 2 (1,41424356) hoặc phức tạp h ơn, số Pi (3,141592653589793238462643383279) vì họ đã có nhữ ng “câu thần chú”. Các nhà quảng cáo đã lợi dụng đặc điểm này: Alico mua số điện thoại 117-117
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 170/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
vì nó được đọ c là Iina-Iina (tốt quá, tốt quá), American Home Direct có một số điện thoại thứ hai 508-114, được đọc cách khác là Kore wa ii yo (có nghĩa “Cái này tốt lắm đó!”).
Ngoài con số, người ta còn lợi dụng những câu cách ngôn, ngạn ngữ vì nó có một giá trị luân lý, bắt người ta phải tuân theo. Hãng chứng khoán Nikko Cordial dịch chữ Anh Cordial là “Thành Tâm Thành Ý” để nói lên bụng dạ tốt lành củ a mình. Khẩu hiệu này dễ nghe theo nhất là trong mộ t thời buổi mà lòng tin của người đầ u tư vào các món hàng chứng khoán bị lung lay do những xì-căng-đan gây ra bởi những xí nghiệp kể trên.
Hãng Yamato chuyên môn chuyên chở có nhãn hiệu “Con Mèo Đen”. Họ đ ã cho chiếu một phim quảng cáo, trong đó một con mèo đen dắt một con ếch và một con lạc đà băng ngang phòng đợi phi trường, trong khi đó, xướng ngôn viên đọc “Kuroneko de kareru va rakuda”. Trong ti ếng Nhậ t “kuroneko” là mèo đen, “kaeru” là ếch và ” rakuda ” là lạc đà. Hai chữ sau còn có ngh ĩa khác.” Kaeru ” có nghĩa là ” đi về “, raku da ” là ” khỏe xác “.Như thế , ba con vật đi ngang phòng đợi phi trường t ượng tr ưng cho thông điệp hàm ý hai nghĩa : ” Đi chơi xa về, nếu dùng dịch vụ của Hãng Mèo Đen thì khỏi mệt “.
Trò chơi Shiritori (Nối Vần) trong tiếng Nhật cũng là một hình thức giúp trí
nhớ khác. Hãng bia Kirin chiếu một mẩu phim quảng cáo với khung cảnh quán
rượu có cô hầu bàn đùa với khách. Một người đưa ra chử sakana (món nhắm),
người khác tiếp natsu (mùa hè), người kia lại tiếp tsuki (mặt trăng) và người
thứ hai lại tiếp Kirin (tên nhãn bia). Như thế ta có nguyên hình ảnh thú vị, nhàn
nhã của một người uống bia (Kirin) với món nhắm trong một đêm mùa hè nóng
bức có trăng soi.
Quảng cáo cũng lợi dụng nghệ thuật để làm công cụ của mình. Nếu ta coi
điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy, thì quảng cáo có thể nào được gọi là “nghệ
thuật thứ tám” chăng ? H. Minami bảo”Quảng cáo là nghệ thuật nhưng là một
nghệ thuật bất đắc dĩ” bởi vì mục đích của quảng cáo là để phục vụ thương mại
chứ không để làm nghệ thuật. Danièle Schneider, một nhà nghiên cứu Thụy Sĩ,
cho rằng quảng cáo vay mượn hay bắt cóc (détourner) (P) nghệ thuật. Trong
luận án tiến sĩ của tác giả Schneider về quảng cáo trên bích chương, bà cho
rằng mượn cái gì đã có sẵn và có tiếng để gây sự chú ý cho người xem là một
chiến lược quảng cáo không tốn công tốn sức mà làm người quảng cáo nâng
mình lên tầm cở của nhà nghệ sĩ sáng tạo. Từ xưa, trong mọi thứ nghệ thuật, từ
văn chương, thi ca, âm nhạc, điệu khắc, kiến trúc…sự “mô phỏng cổ nhân” chỉ
là chuyện thường tình. Có điều là quảng cáo vừa kính trọng nghệ thuật, vay
mượn nó, lại vừa tàn phá hình ảnh của nó vì đem cái thiêng liêng và trường cửu
(nghệ thuật) để phục vụ cho cái tục lụy và nhất thời (xã hội tiêu thụ).
Trong ngành quảng cáo ở Âu châu, tác phẩm của Leonard de Vinci, Michel Ange, Goya, Picasso là nh ững s ản phẩm nghệ thuật đượ c qu ảng cáo ” mượn đở” nhiều nhất. Schneider nhắc đến quảng cáo sữa chua của Chambourcy đã dùng bức tranh Cô Bán Sữa (La laitiere), một bức họa của Vermeer về năm 1660 với ngụ ý rằng sữa chua của hãng mình làm dùng theo phương pháp cổ
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 171/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
truyền. Hãng hàng không British Airways muốn ví von giờ giấc nhu nhuyễn
của mình đã dùng bức tranh Những Chiếc Đồng Hồ Mềm Nhũn (Les montres
molles) của họa sư phái siêu thực Salvador Dali. Hãng Darty chuyên bán đồ
điện ở Pháp dùng bức tượng Venus de Milo (tượng chỉ nắn tới vai và không có
hai tay) để bảo rằng giá của Darty rẻ đến nổi tượng người đẹp cũng phải rụng
rời tay chân…Trong quảng cáo truyền hình mà ta bắt gặp ở Nhật chẵng hạn,
người Nhật cũng dùng thủ pháp này. Hãng dược phẩm Takeda đã sử dụng bức
tượng Người Suy Tư (Le Penseur) của Rodin để quảng cáo hiệu quả thần diệu
của thuốc chống đau nhức của mình làm tượng đá cũng phải vỡ tan tành. Hãng
NEC Mobile Phone bảo điện thoại di động của mình sẽ làm cho con người
được tự do như nhưng con cá heo vùng vẫy giữa trời nước bao la trong bộ
phim nỗi tiếng Le Grand Bleu (Đại Dương Xanh Thẳm) của Luc Besson.
Nestcafe để ngôi nhà thờ với kiến trúc tiền vệ của thành phố Barcelone soi
bóng trong cốc cà phê đen nhánh của mình và Rokucha đã quảng cáo trà xanh
với nhạc luân vũ của Johann Strauss. Hình ảnh đàn trẻ con lái xe đạp đi từ mặt
đất lên trời trong phim E.T. (Extra-Terrestre, hay Người Vũ Trụ) của Steven
Spielberg cũng được hãng xe hơi Toyota bắt chước để quảng cáo cho sản phẩm
của mình.
Tóm lại, qua những ví dụ cụ thể kể trên, ta nhận thấy, quảng cáo nói chung và quảng cáo truyề n hình nói riêng, đã lợ i dụng nghệ thuật hoặc bằng cách bắt cóc (détourner) (P), cóp nhặt (copier) (P), thay hình đổi d ạng (déformer) (P) hay ghép (greffer) (P) nó vào thông điệp thương mại. Dù vậy, những nhà nghiên cứu như Schneider không lấy đó làm phiền bởi vì sự sử dụng như thế đã làm phong phú nội dung của quảng cáo và có ưu điể m là nâng cao tầm thưởng thức nghệ thuật của người xem quảng cáo vì cho đến nay, văn hóa truyền hình vốn là một thứ văn hóa bị coi là đại chúng (nghĩa là thiếu chất lượng) và bị khinh rẻ.
14) Nội dung tiềm ẩn (Hidden content) quảng cáo truyền hình
Như đã nói, quảng cáo truyền hình có hai thứ ” nội dung “. Nội dung ” bên
ngoài” là cái thể hiện bằng hình ảnh, bằng lời nói (hình thức). Tuy nhiên có
những điều người ta không thể nhận ra ngay được vì nó nằm ở bên trong
thương điệp nhưng không vì thế mà không ảnh hưởng tới sự thành công hay
thất bại của thương điệp. Để tìm hiểu về điều này trước hết ta phải có kiến thức
về các khái niệm loại hình (type), nguyên hình hay điển hình
(archetype),định hình (stereotype) của các thương điệp được sử dụng cho
đến nay.
a) Loại hình (type) các thương điệp
Như đã nói ở phần trên, chúng ta thường thấy hai loại hình quảng cáo: loại giải thích (explanatory) và loại quyến rũ (seductive). Trong trường hợp ngườ i tiêu dùng là những kẻ đã có sẵn cảm tình với thươ ng phẩm, nhà quảng cáo chỉ còn phải giải thích cho tường tận những điểm hay của thương phẩm cũng như cách dùng nó để đạt được hiệu suất tối đa. Trong trường hợp ấy, thông điệp của người quảng cáo phải trực tiếp, khoa học và hợp lý. Người quảng cáo thừa
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 172/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
sức để mặc khán thính giả tự do tuyển chọn món hàng. Ngược lại, trong trường hợ p người nhận thông tin đề kháng lại thương điệp hay không thấy món hàng có gì để hấp dẫn họ, thương điệp truy ền đi ph ải khơi g ợi xung động, tình cảm và trí tưởng tượng. Nhiều khi thông điệp đó còn phải có tính công kích, hợm hĩnh hoặc “dọa nạt”. Người quảng cáo có thể đi đến chổ đập mạnh vào c ảm quan của người tiêu dùng và dánh vào những điểm yếu của họ. Người ta v ẫn thường nói đến “Ba chử B” (Beauty=Ng ười Đẹp, Baby = Trẻ Em, Beast = Thú Vật), ba loại hình ảnh lôi cuốn khán giả nhiều hơn cả. Ngoài Ba ch ử B kể trên, còn có rất nhiều thủ pháp khiến cho người nhận tin bị lôi cuốn đến độ không kịp trở tay.
Nhà nghiên cứu H. Sato (1996) nhận định rằng giữa lối quãng cáo của Nhật và
của Mỹ, có một sự khác nhau cơ bản. Trong khi công thức quảng cáo của Nhật
Bản là I-E-S-S (Image- Emotion-Soft Sell) nghỉa là “Dựa vào Hình Ảnh và
Xúc Động để Bán Hàng Một Cách Nhẹ Nhàng” thì công thức quảng cáo của
Mỹ là M-R-H-S (Message- Rational- Hard Sell), “Dựa vào Ngôn Ngữ và
Thuần Lý để Bán Hàng Một Cách Mạnh Bạo”. Khi Sato đi tìm mối tương quan
giữa lối giải thích về phẩm chất của món hàng và sự ưng ý của người mua, ông
thấy tương quan đó khá cao (0,629) ở Mỹ và khá thấp (0,286) ở Nhật. Nói khác
đi, lối quảng cáo của Mỹ dựa vào lý tính (rational appeal) còn quảng cáo của
Nhật Bản dựa vào tình cảm (emotional appeal) trong khi Âu Châu đứng giữa
ngã ba đường. Giáo sư S. Iwao (1982) cũng đã từng nhận ra điều đó khi bà cho
rằng lối quảng cáo dựa trên lời nói không thể nào thành công được ở Nhật.
Người Mỹ đặt trọng tâm vào “Nội Dung Truyền Đạt” trong khi ở Nhật, muốn
nói cho người ta nghe, phải dùng những “Yếu Tố Ngoài Lời Nói” (YÙ Tại
Ngôn Ngoại). Trong việc buôn bán, ít khi ta thấy các nhà kinh doanh Nhật Bản
trả lời thẳng thừng về một câu hỏi gì. Trong khi các doanh nhân Âu Mỹ không
nắm được ý nghĩa của một thương điệp Nhật Bản thì người Nhật bình thường
nhất vẩn hiễu được nó một cách dễ dàng. Có thể nói, quảng cáo Nhật Bản cũng
nằm trong phạm trù của nghệ thuật Đông Phương, kể cả Trung Quốc và Việt
Nam. Chúng ta còn nhớ về sáu phép làm thơ (Lục Nghĩa) trong Kinh Thi, tác
phẩm cổ xưa về văn học dân gian Trung Hoa. Trong đó các thể Tỷ, Phú, Hứng
là những thủ pháp rất gần gủi cả với người Việt Nam (qua ca dao) và người
Nhật (trong Waka là thể thơ xưa cũ nhất của họ). Khi Tokyo Gas đưa ra hình
ảnh đứa trẻ và con cá voi, họ muốn so sánh (Tỷ) là cả hai đều cần khí trời như
nhau. Khi hãng Bancha quảng cáo cho loại trà rẻ tiền và không hương này
(Bancha) qua cậu chuyện một cậu xấu trai nhưng có của đi tìm vợ, họ muốn
bóng gió bảo rằng trà tuy không hương nhưng có lợi cho sức khỏe (Hứng).
Hãng Ajinomoto quảng cáo Hondashi (bột cá và rong khô để nấu nước dùng
cho ngọt) đã mô tả (Phú) một lô món ăn khác nhau mà người ta có thể nấu
nướng được với loại sản phẩm cơ bản này.
Hầu hết các thương đị êp đều đưa ra điều tốt đẹp (positive appeal) của sản phẩm nhưng loại qu ảng cáo này được coi như là khoathị phiến diện (one-sided statement) và có khi chưa chắc đã thành công bằng những thương điệp khoa thị toàn diện (two-sided argument) mà trong đó điều tốt đẹp cũng như điều
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 173/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
yếu kém được đem ra chào hàng (negative appeal). Chúng ta có thể tha th ứ cho Volvo khi họ nói “Xe Volvo chúng tôi gây ra tạp âm và ô nhiễm môi sinh nhưng chúng tôi hứa sẽ cố gắng khắ c phục các khuyết điểm dó” . Có nhiều người s ợ hãi phải mua bả o hiểm khi các hãng bảo hiểm này đem những hình ảnh bất trắc, tối tăm (khả năng gặp tai nạn, rủi ro)… ra để hăm dọa khách hàng (Kajiyama, sdd).
b) Điển hình (Archetype) các thương điệp
Khái niệm điển hình đã được sử dụng bởi nhà tâm lý học Carl Jung, sau đó lại được nhắc đến nhiều bởi Northrop Frye và các học giả trường phái cấu trúc khác. S. Randazzo (1995) kết hợp qu ảng cáo với huyền thoại (mythology) và ông cho rằng người ta tạo nên nh ững huyền thoại để bán hàng được dễ dàng hơn. Ông gọi những huyền thoại này có tính cách phổ quát và xuyên -văn-hoá là điể n hình (còn gọi là nguyên hình). Chúng ta thử xem một số mẫu hình đã được Randazzo nhắc tới:
– Điển hình “Chiến Sĩ”
Tượng trưng cho những đứ c tính như sự độc lập, lòng can đảm, sức mạnh) có thể được tựơng trưng bằng hình ảnh như người người, ky sĩ, viên chứ c xí nghiệp, cao-bồi miền Vi ễn Tây, cầ u thủ bóng đá, nhà kinh doanh, l ực sĩ giác đấu (trong quảng cáo, ta thấy điển hình này qua hình ảnh của nhân vật thần thoạ i Âu Châu Lancelot du Lac, cao bồi Marlboro, người Samurai, Mr Clean, một nhân vật tượng trưng cho sự sạch sẽ).
– Điển hình “Người Mẹ”
Tượng trưng cho sự ấm cúng, tiện nghi, yên ổn, thứ c ăn. Hình ảnh bà Thiên Nhiên-Người Mẹ Hiền (Mère Nature), nhà giáo, bà mụ, bà chủ quán, ng ười làm vườn, bà nội trợ (trong quảng cáo, ta còn nhớ Bà Mẹ Đeo Kính Lão của hàng Xúp Campbell, Dì Jemina, Mère Denise, bà thợ giặt tay quảng cáo cho hiệu máy giặt ở Pháp).
– Điển hình “Người Cha”
Tượng trưng cho trật tự, lý tính, pháp luật, bảo vệ. Hình ảnh Người Cha thường thấy qua người cơ trưở ng máy bay, người hướng đạo, ông mục sư, nhà vua, vị tổng thống vv…( trong quảng cáo, đó là Chú Sam, ông già đạo Quaker bán thức ăn sáng (Quaker Oats Man), người khổng lồ màu xanh bán bắp hộp (Green Giant)).
Qua những nghiên cứu về dân tộc học và tâm lý quần chúng, người ta có thể
định được vị trí (positioning) món hàng trên những trục tung, trục hoành tượng
trưng cho bảng giá trị văn hóa của người tiêu thụ để tìm ra được những hình
ảnh quảng cáo có khả năng đi sát với một huyền thọai đã có. Ngược lại một
mặt hàng tự nó cũng có thể tạo ra được một huyền thọai. Ví dụ như Mc Donald
không chỉ là mẩu bánh mì kẹp ham-bắc-gơ với xốt cà chua ngọt (ketchup) mà
còn là huyền thọai của sự gặp gỡ giữa những người trẻ (trẻ tuổi và trẻ tính).
Coca-Cola chỉ là một thứ nước giải khát nhưng tăm bọt dạt dào sảng khoái của
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 174/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
nó đã giúp người tiêu thụ xoá được mọi biên giới quốc gia, văn hoá và chủng tộc.
c) Định hình (stéréotype) của các thương điệp
Định hình là một hình ả nh cứng nhắ c, rập khuôn, cố định về một sự vật gì. Nói đến đị nh hình, người ta thường nghĩ t ới định ki ến (prejudice) và thiên kiến (bias) là những gì tiêu cực. Hiểu theo nghĩa đó thì định hình có khả năng làm giảm bớt thông tin và gây ra hiểu lầm, thu nhỏ thông tin lại thành những mẫu hí họa (caricature). Tuy nhiên, những yếu tố tiêu biểu của định hình th ường giúp ta củng cố mộ t hình ảnh cần được truyền đạt và tiết kiệm đựoc thời gi ờ trong trườ ng hợp ta phải nhấn mạnh một điều gì cho người khác hi ểu. Định hình kh ởi đầu bằng những bi ểu tượng. Quảng cáo ở Nhậ t đựa rất nhiều trên biểu t ượng. Đưa hình ảnh một ông giáo có nghĩa là nói về sự thông minh, c ần mẫn, một nhà thể thao là nhiệt tình, sức vóc, một người dân cày là nói về sự kham khổ, chất phác và kiên trì.
Định hình nhỏ h ơn điển hình trên phương diện qui mô lẫn nội dung. Đặc tính của định hình là sự lặp đi lặp lại trong mộ t khu vực địa lý giới hạn h ơn đi ển hình. Ngược lại, nó có hiệu quả mạnh hơn là điển hình vì nó cô đọng hơn.
Trong khi điển hình chuyên chở các giá trị phổ quát hay xuyên văn hóa thì định hình mang đến cho người tiêu thụ những thông điệp gần gũi và đặc thù
- Cốt truyện và những yếu tố định hình khác – Cốt truyện (Plot)
Cốt truyện phim quảng cáo truyền hình chưa bao giờ được coi như một lãnh
vực nghiên cứu được nhiều người quan tâm ngay đối với những nhà nghiên
cứu theo khuynh hướng chủ nghĩa cấu trúc. Ta đã biết thế giới của phim quảng
cáo cũng có nhiều điểm tương đồng với thế giới mơ mộng của truyện cổ dân
gian Nga (V. Propp đã nghiến cứu) hay dần thoại của người da đỏ Mỹ châu (đề
tài của A. Dundes). Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về kết cấu thường đặt
trọng tâm vào các tác phẩm văn học như khi T. Todorov nghiên cứu kết cấu
của Decameron hay C. Bremond nghiên cứu về truyện Nghìn Lẻ Một Đêm.
Có thể vì độ dài quá ngắn ngủi (từ 15 giây đến 3 phút) của một phim quảng cáo
không đủ cho diễn tiến của câu truyện được triển khai. Hoặc giả những công
trình nghiên cứu dầu có đi nữa cũng không được công bố vì tính cách đặc biệt
về tác quyền của một phim quảng cáo.Thứ đến, những cách cắt xén phim
(montage) để giử nó trong độ dài mà ngân sách cho phép cũng làm lượng thông
tin của phim quảng cáo giảm đi nhiều. Ở Nhật Bản, tuy giỏi nghiên cứu chẳng
đi xa hơn các đồng nghiệp Tây Phương, nhưng phải nhìn nhận rằng trên màn
ảnh truyền hình của họ, ta có thể bắt gặp rất nhiều dữ liệu cho phép chúng ta
minh định rằng phim quảng cáo truyền hình thường có những mẫu định hình
(stereotypes) vì cố ý nhiều hơn là vô tình, đã giúp cho người quảng cáo tăng
cường hiệu năng của thương điệp mình muốn gửi tới khán thính giả.
Hãy xem một loạt phim (hen =series) như U -long-cha-hen (Loạt phim về Trà Ô-Long) trên truyền hình quảng cáo loại trà tàu Ô- Long cho quần chúng Nhật.
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 175/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tác giả của nó đã xậy dựng một loạt phim quảng cáo về loại trà này chung
quanh nhiều đoạn phim với một chủ đề là đời sống thường nhật của người
Trung Quốc (một cặp trai gái đi xe điện, bà mẹ giặt áo bên cạnh cô con gái,
mấy cô tiếp viên hàng không trẻ, hai cô gái mặc xường xám nhảy múa trên
đường…). Mục đích của người quảng cáo là muốn bày tỏ với người tiêu thụ
rằng “Đây chính là món uống hàng ngày của người Trung Quốc bình thường”,
nhấn mạnh tính “đích thực và phổ biến” của món hàng. Một loạt phim khác
nói về “Cup Noodles” (Loại Mì Ăn Liền Trong Hộp Giấy), món mì tiện lợi, chỉ
cần đổ nước sôi và cho dăm phút là có thể ăn được. Loạt phim này có chủ đề
Thế Kỷ Hai Mươi (qua một cuộc trưng cầu ý kiến, người Nhật cho rằng mì ăn
liền là phát minh quan trọng nhất của họ trong thế kỷ hai mươi, trước cả đài
bán dẫn ( radio transistor) và giàn nhạc câm ( Karaoke). Anh chàng ăn mì đã
được đặt bên cạnh những nhân vật được coi như đã làm nên thế kỷ hai mươi,
trong đó có Tổng Bí Thư Gorbachev, Tổng thống Bill Clinton, ca sĩ Elvis
Presley. Điểm chung của các đoàn phim này nhằm đề cao vai trò lịch sử của
mì ăn liền.
Hãng Orico đã quảng cáo Thẻ Tín Dụng Orico v ới tài tử điện ảnh M ỹ Leonardo DiCaprio qua một loạt phim có chung một chủ đề “Thanh Tra Công An Quốc Tế (Interpol)” như sau:
-Thanh tra DiCaprio chặn bắt một tên gian trong quán rượu. Trong lúc ch ạm trán, một loạ t chai cốc đổ vỡ . Thanh tra đã rút ngay thẻ tín dụng Orico để bồi thường thiệt hại và chủ quán hoan hỉ nhận lời.
-Thanh tra DiCaprio cứu một bé gái bị nạn nhưng đứa bé lại bị tụt mất một chiếc giày đỏ mà nó yêu thích. Thanh tra đã dùng thẻ tín dụng Orico để mua ngay một đôi giày mới đền bù cho em ngay.
-Thanh tra DiCaprio không cần vũ khí, hạ một tên gian bằng cách xóc mạnh chai sâm banh và bắn nút chai vào mặt hắn giữa một chuyến bay. Thanh tra đền ngay cho nữ tiếp viên hàng không mọi thứ hư hại xảy ra với tấm thẻ tín dụng của mình.
Trong ba đoạn phim nói trên, điểm chung của nó là công thức:
Người Hùng+Hành Động Diệt Quân Gian+Thiệt Hại Gây Ra Ngoài YÙ Muốn+Đền Bù SòngPhẳng Và Nhanh Nhẹn+ Được Chấp Nhận Vui Vẻ Mọi Nơi.
Bỗng nhiên, người xem phim và có thể là khách hàng tương lai, tự đồng hóa mình vớ i người anh hùng trong phim.Việ c sử dụng Thể Tín Dụ ng Orico s ẽ cho phép h ọ trở thành người hùng lý tưởng là “Thanh Tra Công An Quốc Tế” đẹp trai và dũng cảm DiCaprio.
Trườ ng h ợp nói trên cho ta thấy tính định hình của ba mẫu truy ện xoay quanh cũng một món hàng. Sau đây là một dạng khác của những mẫu định hình như nói về những món hàng khác nhau:
-Công an buộc tội một người đã làm hàng giả mạo. Bị cáo quả quyết món hàng
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 176/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
anh bán chính là Seirogan, một phương thuốc trị đau bụng thần hiệu nhưng anh
ta không có bằng chứng vì trên hộp thuốc lại thiếu cái Loa, nhãn hiệu cầu
chứng của Seirogan. Cuộc điều tra còn chưa ngã ngũ thì có người hớt hải chạy
đến cho biết vừa tìm ra được… Cái Loa và mang đến. Bị cáo được giải oan, thở
phào (Seirogan)
-Công an bu ộc tộ i một bà nội trợ là nói dối vì bà khoe món tôm lăn bột chiên của bà ngon nhất trần đời. Đến khi phòng thí nghiệm phận tích dầu chiên của bà cho biết nó chính là hiệu dầu Nisshin thì mọi người mới đồng ý chịu thua (Nisshin).
Hai mẫu truyện nói trên theo cùng một công thức :
Nhân vật Chính Bị Buộc Tội + Đối Xử Tệ Bạc + Nỗi Oan Sáng Tỏ + Trút Đi Gánh Nặng.
Cũng nên biết rằng, ở Nhật Bản cũng như trong nhiều nước Á đông, quan tòa, cảnh sát, hải quan…tượng tr ưng cho sự cầm cân nảy mực (điển hình Người Cha). Mộ t khi những người nói trên đã chấp nhận một sự thực thì khó lòng nói ngược họ được.
Tuy nhiên, diễn tiến có tính cách lý luận không phải là phương thức độc nhất
được sử dụng để làm phim quảng cáo truyền hình. Còn có những mô hình
quảng cáo phi lý, gián đoạn, pha trộn người thật việc thật với nhân vật hoạt
hình, xen âm thanh ánh sáng thực sự với tác dụng âm thanh hay quang
học…nhưng tất cả đều góp phần tạo thành cái khung cần thiết cho phim quảng
cáo truyền hình.
- Định hình của cốt truyện
Mặc dầu thời giờ lên đ ài hết sức ngắn ngủ i, ta v ẫn có thể nhìn thấy cốt lõi có tính định hình của các thương điệp truyền hình. Thuật gi ả sau khi quan sát 586 đoạn phim do hãnh thông tấn Dentsu cung cấ p đã có th ể đơn cử một số định hình rất…Nhật Bản (xã hội truyền thống, chủ nghĩa tập đoàn, tinh thần nể trọng tuổi tác) như sau:
- Định hình “Tiếp Nối Truyền Thống”: có thể nhìn thấy qua ba thí dụ sau:
-Một nhân vật nhớ lúc sinh thời, b ố mình r ất thương cô con gái. Ông già thuở ấy hay nhâm nhi huýt-ki Suntory. Ngày cô em đi lấy chồng, nhân vật này muốn nhắn lại cho cậu em rể tương lai biết về chuyện đó.
-Người cha tung chùm chìa khóa của chiếc xe Toyota cho cậu con trai như thể trao gửi vận mệnh của mình cho thế hệ tương lai.
-Ng ười mẹ dạy cho con nấu món Oyakodon với bột ngọt Ajinomoto để mai sau con nấu cho chồng ăn. Oyakodon là món cơm nấu vớ i ch ả trứng và thịt gà, cũng còn có nghĩa là món cơm (Don) của mẹ (Oya = gà) và con (ko = trứng gà).
Định hình ” Họp Đoàn “ : trong hai ví dụ :
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 177/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
-Nhờ máy vi tính của Matsushita, mấy người bạn cũ trong một ban nhạc sinh viên tìm ra tông tích của nhau và cùng đến dự đám cưới của một anh chàng trong bọn.
- Một ông già tìm ra được dấu vết người bạn cũ nhờ thông tin vi tính, lật đật lấy xe lửa đi dự một bữa cơm hội ngộ và vui mừng thấy người bạn ấy xuất hiện vào giờ chót.
Định hình “Trọng Người Trên Trước”: qua hai thí dụ:
-Một nữ nhân viên ngắm nghía đôi vai ông chủ sự: “Nhìn dáng dấp của ông, tự dưng em thèm lập gia đình”. Uýt-ki Suntory cũng như ông chủ sự, càng già càng đáng tin cậy, càng…. đậm đà hương vị.
- Mỗi chủ nhật, tôi vẫn đạp chiếc xe đạp Panasonic theo bố tôi, người mà tôi vẫn nhìn đằng sau lưng từ năm mười hai tuổi. Thành ngữ ” nhìn cái lưng ” (senaka wo miru) trong tiếng Nhật có nghĩa là ” Noi gương “.
- Những yếu tố định hình khác
Nói về những yếu tố định hình, ta còn có thể nh ắc đến những bóng gió, gợi ý về tình dục. Chúng ta thừa biết tình dục là một yếu tố không thể thiếu trong sinh hoạt con người, nếu không nói là yếu tố then chốt như quan đi ểm c ủa Sigmund Freud và trường phái tâm phân học. Tình dục có thể biểu hiện bằng những hình ảnh khỏa thân, nhất là nơi phụ nữ. Tuy nhiên, nhiều quốc gia nhân danh trật tự xã hội đã cấ m hẳn lo ại bi ểu hiện này. Do đó, có những hình ảnh bóng gió như mộ t ngón tay, một thỏi son để cạnh bên đôi môi chu chu, một lờ i mờ i mọc, hẹn hò giữa đôi nam n ữ…cũng đã đủ.Yếu tố tình dục thường đề cao vai trò chủ động của đàn ông và thụ động của phái nữ . Vai trò xã hội nam nữ của các nhân vật chuyển vấ n đề tình dục qua cái nhìn phái tính. Theo nghiên cứu của Nobeshima (1996) dựa trên ph ương pháp phân tích b ằng ngữ vị (SD = Semantic Differential) đã cho biết định hình của các nhân vật nam trong phim quảng cáo truyền hình gắn liền với những đức tính như nghiêm túc, an định, thông sáng, nhẫ n nại, độc lập, phản kháng, tự tin và tiến bộ. Đị nh hình phụ nữ thường kết h ơp với những giá trị như d ịu dàng, s ạch sẽ , kh ả ái, hạnh phúc. Ngày nay, ở Nhật, cho dù phụ nữ được trình bày trong các thương điệp với vai trò xã hội khá tiến hóa (giám đốc hãng buôn, luật sư bác sĩ, kỹ sư, giáo sư …) bởi vì phụ nữ đ ã đi làm nhiề u hơn cách đây mấy mươi năm, nh ưng e rằng định kiến ” phái yếu ” c ủa họ vẫn chưa đượ c xua tan. Vai trò của họ hãy còn thấp kém bởi vì họ còn được trình bày qua hình ảnh của người mẫu bằng nhựa, nữ nhân viên tôn kính ông chủ sự, người nội trợ làm c ơm đợi chồng về, cô gái đợi bà mai ki ếm chồng, đàn bà nghe gi ọng nam truyền lệnh từ hậu trường (voice-off)… Đó là cả nh t ượng còn thấy ở một nước tiên tiến, nơi chính phủ không ngừng kêu gọi gái trai chung sứ c xây dựng xã hội và là quốc gia đo ạt 18 huy chương thế vận mà trong đó 13 chiếc là nhờ sức lực của các nữ lực sĩ.
15) Phong cách của thương điệp truyền hình
Nếu thương điệp truyền hình chỉ là dụng cụ thúc đẩy kinh tế đi lên hay làm
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 178/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
tăng lợi nhuận của chủ qu ảng cáo thì nó không đáng cho chúng ta lưu tâm đến thế. Trước khi nói về ả nh hưởng củ a quảng cáo truyền hình đối với đời số ng và văn hóa, ta thử xét đến phong cách của nó. J.-M. Floch đã nhấn mạnh đến tính chiến lược của mỗi loại quảng cáo truyền hình và mỗ i chiến lược hàm súc một nghệ thuật tiếp cận sự vật khác nhau. Floch trích dẫn lời của nhà quảng cáo Jean Feldman : ” Tôi không trình bày một sự thật. Tôi chỉ trình bày sự thật của tôi “( Je n’exprime pas la vérité. J’exprime ma vérité ). Như thế , quảng cáo truyền hình cần những nhân tài đến từ những phương trời khác nhau. Chúng ta có thể đơn cử bốn cung cách quảng cáo chính:
- Quảng Cáo Tham Chiếu (Publicité Référentielle) (P) bằng thủ pháp trình bày sự vật qua những chi tiết tỷ mỷ liên quan đến nó và phản ánh sự thực ngoài đời. Phương pháp này được David Ogilvy chủ trì. Ông là người khuyên những nhà soạn thảo phim quảng cáo về xăng dầu phải tới cây xăng quan sát cảnh tượng ở đó để có thể diễn tả một cách trung thực “mãng đời” mà anh ta chứng kiến.
Hãng Ogilvy & Mather France khi quảng cáo đặc tính dính chặt củ a keo Superglue đã chiếu hình ả nh thực sự một người chân dính keo treo ngược lủng lẳng trên trần nhà. Young Rubicam quảng cáo Café Maxwell vớ i hình ảnh hết sức đơn sơ và gần gũi của một người vừa đánh ghi-ta, vừa uống cà phê.
- Quảng Cáo Bản Chất (Publicité Substantielle) (P) đặt trọng tâm vào bản chất và cốt lõi của sự vật. Lời quảng cáo nay được đề xướng bởi J. Feldman và trường phái của ông. Họ không chấp nhận tính chất huyền hoặc của thương điệp và chủ trương “bản chất sâu sắc của sự vật tự nó là ngôi sao sáng không cần tô vẻ”. Nhấn mạnh màu hung đỏ của bia Gkillian Xứ Tô Cách Lan, phẩm chất trứng tươi của mỳ YÙ hiệu Lustucru…là để sự vật tự thể hiện bản chất của nó.
- Quảng Cáo Huyền Thoại (Publicité Mythique) (P) như khuynh hướng theo Jacques Séguéla, nối kết sự vật với mơ mộng và huyền thoại bao quanh nó. Để quảng cáo xe Citroen, hãng RSCG của nhóm ông dùng hình ảnh những con ngựa hoang (chevron) đang phi nước đại.Leo Burnett đã tạo ra huyền thoại anh chăn bò cưỡi ngựa hút thuốc lá Marlboro, tượng trưng cho tự do thanh thản giữa thiên nhiên.
- Quảng Cáo Phản Diện (Publicité Oblique) (P) nghĩa là không trình bày
thẳng s ự vật mà nói vòng vo, mỉa mai hoặc nói ngược lạ i như lố i diễn tả theo nghịch thuyết (Paradoxe), đầy tính cách tượ ng trưng, trí thức và gây hấn. Lối qu ảng cáo đề xướng bởi Ph. Michels. Hãng CLM/BBDO quảng cáo r ượu uýt-ki Black and White (Đen &Trắng) với tiêu đề : “Nếu trang quảng cáo đen thui thì còn mong nỗi gì !”
Ta thấy rõ ràng có ít nhất hai phong cách làm phim quảng cáo : trước tiên là lối tả thực với D. Ogilvy va J. Feldman, thứ đến lối ấn tượng với J. Séguéla và Ph. Michels. Phong cách làm phim cũng có phần nào dính líu tới dân tộc tính. Annie Prost của hãng Eurocom phân biệt “Quảng cáo lối Mỹ là quảng cáo sử
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 179/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
dụng những sự kiện (publicité des faits) (P) , quảng cáo lối Pháp là quảng cáo
bằng khái niệm (publicité des concepts) (P) “. Nói khác đi, ở Mỹ, quảng cáo
rất hiện thực trong khi Pháp dựa nhiều trên ấn tượng. Pháp dùng nhiều hình
ảnh, phương pháp tiếp cận nghệ thuật và thẩm mỹ với mục đích quyến rũ nhiều
hơn là thông báo. Điều này chứng minh quảng cáo Pháp đứng giữa quảng cáo
lối Mỹ và lối Nhật. Nhà quảng cáo Pháp J. Séguéla, người thiên hẳn hòi về lối
quảng cáo sử dụng huyền thoại và nghệ thuật đã không tiếc lời khen ngợi
phương thức quảng cáo Nhật Bản mà ông cảm thấy gần gủi.
Trong tác phẩm “Lị ch sử quảng cáo quốc tế qua 65 lần ra quân” (Pub Story, Histoire Mondiale de la Publicité en 65 Campagnes) ông đã viết những dòng sau đây:
- Hiện tạị, chúng ta chưa cần đặt vấn đề Tương lai thuộc về ai thì tôi không là thánh sống nên không đoán được. Nhưng tôi cảm thấy ngành quảng cáo Nhật Bản đang tiến rất nhanh và tôi sẽ không ngạc nhiên tí nào nếu nay mai, lối quảng cáo Nhật Bản sẽ ảnh hưởng cả năm châu. Cứ mãi mê muốn thuyết phục kẻ khác, càng ngày chúng ta càng trở thành vô duyên. Không-nói-gì-cả có thể lại là lối nói kiến hiệu nhất “.
- Suốt 5 năm ròng, hãng National, dù muốn bán máy truyền hình của mình, chỉ tự bằng lòng chiếu cho mọi người xem phong cảnh của một khu phố cổ kính ở Kyoto. Cửa hàng bách hóa Seibu kể lại suốt bốn mùa mưa nắng cuộc đời êm đềm hạnh phúc của cô bé tên gọi Satchan. …Họ không có lấy một lời nói tốt cho cửa hàng của mình, y như làm thế thì tầm thường quá! Phải đem những hình ảnh tượng trưng thay thế cho loại quảng cáo chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu thích nhòm thích ngó của thời đại chúng ta. Rồi cái kiểu quảng cáo so sánh quá đơn sơ mà chúng ta đã lặp đi lặp lại từ một thế kỷ nay sẽ phải cáo chung. Quần chúng đang mong đợi một lối quảng cáo cao cấp hơn và việc đưa suông sản phẩm trình làng hầu như đã trở thành một hành động tục tằn”.
Chúng ta coi trọng sự nồng nhiệt của Séguéla, một nhân v ật tài ba của ngành quảng cáo hiện đại nhưng cần phải tỏ ra dè d ặt với những nhậ n xét của ông. Lý do rất đơn giản : lối qu ảng cáo tập trung trên tình cảm và tình động vốn dễ đưa người ta xa rời lý luận và lý tính.
PHỤ BẢN I : Quảng cáo “áp đặt” bằng quyền uy (thí dụ : Suntory Beer)
Hãng bia Suntory dùng quyền lực c ủa quan tòa trướ c pháp đình để tuyên phán rằng bia Suntory với 100% bột lúa mạch phả i là hiệu bia ngon nhất, không chối cãi vào đâu được (Xuất xứ: Niêm giám ACA, 2000)
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 180/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
PHỤ BẢN II : Quảng cáo bắt cóc nghệ thuật
Chambourcy đã dùng b ức tranh Có Hàng Sữa (La Laitière), một h ọa phẩm c ủa Vermeer về n ăm 1660, để quảng cáo với ngụ ý sửa chua của mình làm đúng theo phương pháp chính thống cổ truyền. Levi’s mặc quần bò cho Nữ Thần Tự Do. Hàng Không British Airways ví giờ gi ấc nhu nhuyễn những chuyến bay hãng mình bằng hình ảnh Những Chiếc Đồng Hồ Mềm Nhũn (Les Montres Molles),
ĐÀO HỮU DŨNG – Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 181/182
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
khởi hứng từ tác phẩm của họa sư phái siêu thực Salvador Dali.
(Xuất xứ: theo Danièle Schneider, trong La Pub détourne l’Art )
- LIÊN HỆ :
- FANPAGE: https://www.facebook.com/viennghiencuukinhtevaphapluat
- CẢM ƠN QUÝ BẠN ĐỌC ĐÃ GHÉ THĂM WEDSITE!